HẠNH PHÚC TRONG TẦM TAY

Материал из Buddha World.

Sách này dành cho các bạn trẻ đang bước vào đời! Và cũng dành cả cho các bậc cha mẹ, ông bà của các bạn!

Thiện Xuân (Inna Malkhanova)

HẠNH PHÚC TRONG TẦM TAY

Viết tặng cháu tôi, Thiện Chánh Nguyễn Việt Tiến, 16 tuổi, ở Sankt-Peterbour

Chuyển ngữ từ tiếng Nga:

Tâm Diệu Hương (Bùi Lan Hương)

và Tâm Nước Tĩnh (Hà Hải Long)

Nhuận sắc:

Thiện Mẫn (Nguyễn Minh Cần)

MỤC LỤC

Chương 1. THẾ NÀO LÀ HẠNH PHÚC? . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Chương 2. HẠNH PHÚC TUỲ THUỘC VÀO ĐÂU? . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Chương 3. TÍNH CÁCH CỦA BẠN. CÁC CẤP ĐỘ TƯ DUY. . . . . . . . . . . . . . . . .

Chương 4. TÍNH CÁCH CỦA BẠN. PHẨM CHẤT CÁ NHÂN.

NHỮNG ĐIỂM MẠNH VÀ YẾU CỦA BẠN. BIỂU ĐỒ TÂM LÝ CỦA BẠN. . . . . .

Chương 5. DỰ ĐOÁN HẠNH PHÚC. CÁC KIỂU HẠNH PHÚC. HẠNH PHÚC NÀO

TỐT HƠN: “KIỂU CỦA MÌNH” HAY “KIỂU CỦA NGƯỜI KHÁC”? . . . . . . . . .

Chương 6. LÀM THẾ NÀO TẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM MẠNH VÀ

KHẮC PHỤC NHỮNG ĐIỂM YẾU CỦA MÌNH?

XÂY DỰNG HẠNH PHÚC CỦA MÌNH,

LÀM VIỆC CHO TƯƠNG LAI: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

  • HÃY BIẾT NÓI VÀ BIẾT NGHE
  • NHỮNG BÍ QUYẾT CỦA GIAO TIẾP
  • NHỮNG VA CHẠM, XUNG ĐỘT VÀ CÁCH ỨNG XỬ
  • TÍNH ƯA VA CHẠM, XUNG ĐỘT:

HÃY HỌC CÁCH NÓI “VÂNG”

  • TÍNH QUÁ NHÂN NHƯỢNG VÀ RỤT RÈ:

HÃY HỌC CÁCH NÓI “KHÔNG”

  • NGƯỜI TA GIẬT DÂY BẠN NHƯ THẾ NÀO

(ĐỪNG LÀM CON RỐI TRONG TAY KẺ KHÁC!)

Chương 7. HÃY LÀ NGƯỜI THỰC TẾ: ĐỪNG ĐÒI HỎI

NHỮNG ĐIỀU QUÁ SỨC Ở NGƯỜI KHÁC. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Chương 8. NỖI CÔ ĐƠN VÀ… TÌNH YÊU. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Chương 9. TÔI LÀ NGƯỜI CÓ HẠNH PHÚC,

VÌ … ĐÃ HỌC ĐƯỢC CÁCH SỐNG. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Chương 10. NHỮNG NGƯỜI CÓ HẠNH PHÚC. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Chương 11. PHỤ LỤC: NHỮNG CÂU ĐỐ TÂM LÝ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Chương 1 THẾ NÀO LÀ HẠNH PHÚC?

Bạn muốn là người hạnh phúc ư? – Hãy hạnh phúc đi! Kozma Prutkov

Tất cả mọi người chúng ta ai cũng muốn được hạnh phúc, có phải thế không? Cả tôi, cả bạn, cả cậu ấy, cả cô ấy… Nhưng bạn hãy nhìn quanh mà xem - bạn có thấy nhiều người thật sự hạnh phúc không? Hoá ra là rất ít! Người ta ai cũng muốn hạnh phúc cả, nhưng không phải ai cũng đạt được nó. Bạn nghĩ xem tại sao như vậy? Bạn không biết à? Thế thì chúng ta cùng nhau lý giải xem. Hoá ra, lời đề từ trên đây -“Bạn muốn là người hạnh phúc ư? – Hãy hạnh phúc đi!” - cũng không đến nỗi “dở hơi” như có thể nghĩ lúc đầu. Hè năm 2000, tại thành phố Amiens của nước Pháp, có khoá tu học của Phật tử Việt Nam toàn châu Âu. Hơn 600 Phật tử và khoảng 80 nhà sư tham dự. Khoá tu học kéo dài mười ngày. Các vị sư đến từ nhiều nước châu Âu, một ngày ba lần giảng pháp cho chúng tôi. Và bạn nghĩ xem các Thầy đã nói gì với chúng tôi? Cái từ “hạnh phúc” được nhắc đi nhắc lại nhiều nhất trong suốt khoá tu học này! Thế hạnh phúc là gì? Có người nói hạnh phúc là được ăn nhiều của ngon vật lạ. Thường đây là những người đói ăn ở các nước nghèo, nơi hàng năm có bao nhiêu triệu người chết đói. Người khác cho rằng hạnh phúc là có thật nhiều tiền để mua bất kỳ thứ gì – nào là xe hơi tốt nhất, máy bay, hòn đảo, quần áo mốt, vàng bạc, trang sức, người hầu kẻ hạ và thậm chí cả nô lệ nữa. Thường nghĩ như vậy là những người nghèo, những người tham lam, hoặc những người thiển cận. Họ không biết được rằng những người giàu cũng có nỗi sợ sệt, lo lắng, đau khổ riêng của mình. Có rất ít người giàu thật sự hạnh phúc, thậm chí có những người giàu đã tự kết liễu đời mình. Có người cho rằng hạnh phúc là khi được “người khác hiểu mình”, hạnh phúc không thể có khi thiếu tình bạn, tình yêu, quyền lực, danh vọng, v.v… và v.v… Tại sao loài người tồn tại bao nhiêu nghìn năm, đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về hạnh phúc? Có lẽ vì con người ta khác nhau, và mỗi người hiểu hạnh phúc theo cách riêng của mình. Hạnh phúc của người thô thiển thì thô thiển, đơn sơ và gần với nhu cầu sinh lý thuần túy, còn người phức tạp hơn, hoặc cao vọng hơn lại có cách hiểu hạnh phúc phức tạp, đa dạng hơn. “Hạnh phúc cũng như cái đồng hồ: máy móc càng đơn giản thì càng ít hỏng hóc” – nhà văn Pháp N. Chamfort (1741 – 1794) đã viết như vậy.

Thế bạn đã tìm ra định nghĩa của từ “hạnh phúc” chưa, hay nó cũng giống như của các cô, các cậu khác và hàng triệu các bạn khác? Nếu bạn xem hạnh phúc là chiếc xe “Mercedes” và hàng đống quần áo mốt thì hãy tưởng tượng xem: Giả sử bạn vào một siêu thị hay vào một nhà máy ô tô nào đó mà bỗng người ta nói với bạn: “Tất cả những thứ Ngài thấy ở đây đều là của Ngài!”. Những tầng siêu thị với những tủ đầy ắp hàng hoá, những bãi xe với hàng nghìn chiếc ô tô là của bạn và chỉ của bạn thôi… Thế thì bạn có cảm thấy hạnh phúc được lâu không? Bạn cần tất cả những thứ ấy để làm gì? Có thể bạn chưa nghĩ về điều này ư? Nếu bạn chưa có quan niệm riêng về hạnh phúc thì cũng hoàn toàn bình thường thôi: hoặc bạn còn quá trẻ và chưa hiểu hết sự đời, hoặc bạn đang thay đổi và học thêm kinh nghiệm sống, và do đó dần dần quan niệm về hạnh phúc của bạn cũng thay đổi theo. Nếu có ai cho rằng hạnh phúc là được ăn trứng cá thoả thuê, uống rượu cô nhắc thoải mái, ăn diện ngất trời, đi xe “Mercedes” “đời mới” và làm tình liên tục với nhiều bạn tình khác nhau, thì hãy nhớ chuyện tiếu lâm sau đây:

Có một bà chồng chết. Buồn nhớ chồng quá, bà bèn đi gọi hồn chồng lên nói chuyện. Bà đồng gọi hồn lên, bà góa phụ hỏi chồng: - Anh ơi, anh sống ở dưới đó thế nào? - Tuyệt vời! Buổi sáng ăn xong là sex (làm tình – ND), buổi trưa ăn xong lại sex và buổi tối ăn xong cũng sex luôn. - Thế anh được lên thiên đàng rồi à? - Không, em ạ, bây giờ anh là một con thỏ.

Bây giờ bạn thử nghĩ xem: Nếu quan niệm về hạnh phúc chỉ dựa trên nhu cầu sinh lý mà thôi thì con người khác con thỏ ở chỗ nào? Con người là một sinh thể phức tạp hơn, chỉ có con người mới có (hay nói chính xác hơn, là mới hay có) quan niệm về cái đẹp, lý tưởng, bổn phận, quang vinh, nghệ thuật, v.v… Còn tình yêu, tình bạn, lòng ghen ghét, tính ưa cầm đầu, lòng đố kỵ hoá ra cũng có ở nhiều loài động vật. Nếu bạn không rung động trước cái đẹp của con người, của hành động, của thiên nhiên thì trong sự phát triển nội tâm, bạn còn đứng thấp hơn con chim ác là, vì loài chim này biết nhặt những thứ đẹp, óng ánh tha về tổ. Thấp hơn cả con khỉ mà người tập luyện kể chuyện về nó như sau: Người ta may cho nó một bộ đồ đen để biểu diễn thì nó cởi ra, vứt đi, làm bộ và chạy khỏi sân khấu. Còn khi đưa cho nó cũng bộ đồ giống hệt như vậy nhưng màu đỏ thì nó sung sướng mặc vào ngay và bắt đầu biểu diễn mà không làm bộ làm tịch gì cả. Vậy thì bạn hãy chú ý phát triển tâm hồn mình hơn nữa. Thế thì hạnh phúc nào tốt hơn - hạnh phúc thô thiển hay phức tạp? Thật khó nói, vì mỗi người có hạnh phúc riêng của mình. Cái chính là đừng theo đuổi hạnh phúc “kiểu của người khác”, bởi vì khi đó, bạn sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc hợp với mình cả. Đừng vào học ở một trường đại học có danh tiếng chỉ vì đó là ý muốn của người mẹ có nhiều tham vọng, trong khi bạn lại thích âm nhạc hay thể thao. Đừng cưới vợ chỉ vì tất cả mọi người đều cho rằng bạn đã đến tuổi lấy vợ và mẹ bạn muốn có cháu bế. Chỉ cưới vợ khi bạn, chứ không phải “họ”, cảm thấy đến lúc phải làm điều này. Cũng cần phải nói rằng hạnh phúc thô thiển đạt được dễ hơn nhiều so với hạnh phúc phức tạp và đa dạng. Hay là trong cuộc đời nên chọn hạnh phúc thô thiển? Hoá ra, mọi chuyện không phải đơn giản như vậy. Chẳng hạn, một người đạt được tất cả mọi điều mong muốn: nhà cửa, gia đình, xe cộ, biệt thự - thế thì anh ta có thật sự hạnh phúc không? Người ấy đã từng có hạnh phúc, hạnh phúc lắm, nhưng rồi anh ta chợt hiểu ra rằng anh đã chán tất cả, chán ngấy mọi thứ anh có, anh cảm thấy không có chút hạnh phúc nào hết. Về những người như thế thiên hạ nói: “đồ rửng mỡ”. Những người có cách hiểu rất đơn sơ về hạnh phúc nghĩ như vậy. Họ không biết được rằng ngoài những nhu cầu vật chất còn có những đòi hỏi khác nhau về mặt tinh thần. Vấn đề không phải là con người “rửng mỡ”, mà đơn giản là người đó thấy đau khổ. Đau khổ đến nỗi người đó có thể tự vẫn. Bạn đã chứng kiến trường hợp nào như vậy chưa? Chắc là có. Thế thì do đâu mà như thế? Bạn đừng trả lời vội, hãy suy nghĩ về một giai thoại mà tôi được nghe trong khoá tu học Phật giáo đã nói trên.

Ngày xưa, có một cô gái thông minh, tốt bụng và xinh đẹp. Cũng như mọi cô gái khác trên đời, cô mơ ước về hạnh phúc, tức là một gia đình tốt và sự sung túc trong nhà. Mơ ước của cô trở thành sự thật – cô lấy được một anh chồng, con nhà giàu, lại tốt bụng, yêu vợ, quý con. Cô sống sung sướng cùng chồng và hai con mà không có điều gì phải buồn rầu cả. Bỗng một đêm nọ, căn nhà bùng cháy. Không biết vì lý do gì: những người hàng xóm ghen tức đốt, hay vì sét đánh phải, hay vì ngọn lửa bay sang từ ống khói nhà bên cạnh. Chị vợ bế hai đứa con - một đứa con trai mới sinh và một đứa con gái nhỏ - chạy ra khỏi nhà. Anh chồng lao vào căn nhà đang cháy với hy vọng cứu được một ít đồ đạc ra. Vì anh hiểu rằng gia đình anh bị mất tất cả, các con anh sẽ bị đói rách. Nhưng người chồng không kịp mang ra thứ gì thì căn nhà cháy đổ xuống và thiêu cháy anh ta luôn. Trong giây lát, chị phụ nữ mất cả chồng lẫn tài sản. Chị chỉ còn mỗi hai đứa con khốn khổ. Chị đi lang thang mà không biết đi đâu. Chị ẵm đứa con trai trên tay, còn đứa con gái thì lê bước theo sau. Cuối cùng, ba mẹ con đi đến một con sông. Dòng sông không sâu lắm, có thể lội qua được. Chị bước xuống sông, khi đi đến giữa dòng thì bỗng nghe tiếng con kêu thét phía sau. Chị ngoái nhìn lại và thấy một con hổ đang quắp đứa con gái của chị mang đi. Chị hét toáng lên, chạy lại để cứu con gái thì lúc ấy đứa con trai bị tụt khỏi tay và dòng sông cuốn phăng đứa bé đi. Chỉ trong vòng mấy giây thôi mà chị đã mất hết tất cả những thứ quý nhất còn lại – hai đứa con. Chị lội qua được con sông và ngã gục vì đuối sức. Chị không còn muốn sống nữa. Các sư cô ở ngôi chùa gần đấy đã cứu người phụ nữ này, chăm sóc, và chị đã ở lại sống trong chùa. Nhiều năm trôi qua. Chị vẫn sống trong chùa. Chị làm việc trong vườn chùa, nấu ăn, dọn dẹp, giặt giũ, chăm sóc những người bị bệnh nặng ở ngôi làng cạnh chùa, chia sẻ đồ ăn thức uống cho những người nghèo đói, an ủi những người neo đơn và bất hạnh, dạy dỗ con cái của họ. Chị thường cảm thấy thanh thản, yên vui trong lòng vì đã giúp được người khác. Có lẽ là bạn không thể tin được, nhưng quả thật bây giờ chị đã có hạnh phúc. Thật sự hạnh phúc. Mà cái hạnh phúc này thì không ai có thể tước đoạt được nữa...

Bạn nghĩ sao về giai thoại này? Có thể bạn nghĩ rằng hạnh phúc nào cũng không thể tồn tại mãi được? Hay là hạnh phúc thường khác nhau? Hay cuộc sống bao giờ cũng cho chúng ta lựa chọn? Hay bạn nghĩ “hạnh phúc là khi mà bạn cần cho ai đó”? Hay hạnh phúc là tình yêu chăng? Hay hạnh phúc tuỳ thuộc trước hết vào quan niệm của bạn về cuộc sống? Hay là … hay là … Bạn hãy cứ nghĩ tiếp đi!

  • * *

Có lẽ bạn còn nhớ công chúa Diana của nước Anh, mấy năm trước đã chết ở Paris trong một tai nạn xe hơi cùng người yêu của mình, con trai một tỷ phú Ả Rập? Nàng đã có tất cả: chồng nàng là vị hoàng tử thừa kế ngôi báu, con trai Nữ Hoàng Anh, có những đứa con tuyệt vời, cuộc sống giàu sang phú quý ở Điện Buckingham thuộc hoàng gia Anh, hàng bao tủ trang phục, mà mỗi cái áo của nàng trị giá hàng chục nghìn đô-la, v.v… Nàng có tất cả mọi thứ, có thể nói là có tất cả, chỉ trừ hạnh phúc! Chồng nàng hắt hủi nàng vì có tình nhân, trong hoàng gia người ta không chịu được nàng vì coi nàng là người không dòng dõi, không quyền quý và không xứng sống trong hoàng cung. Vật chất có quá thừa, nhưng Diana vô cùng thiếu thốn về mặt tinh thần – tình yêu, sự kính trọng, sự thông cảm, và do đó, nàng không có được sự yên ổn trong tâm hồn và sự hài lòng về cuộc sống. Lẽ nào có một ai đó lại muốn ở trong tình cảnh của nàng? Một câu chuyện khác nữa. Một người phụ nữ trẻ trở thành goá phụ vì chồng hy sinh trong Thế chiến thứ nhất. Sau đó chị bị bão cát làm hỏng đôi mắt. Chị chưa bao giờ có con, chưa bao giờ có được nhà riêng, và cho đến tận cuối đời vẫn phải sống nhờ người em gái. Tưởng rằng người phụ nữ bị mù lòa như thế, lại không có nghề nghiệp hay học vấn gì cả, thì làm sao có thể tự thể hiện mình trong cuộc đời được? Nhưng bà đã vận dụng mọi khả năng và trở thành có ích cho người khác. Không chỉ có ích mà còn nổi tiếng toàn thế giới, mặc dù cái vinh quang trần thế hoàn toàn không làm bà quan tâm. Chắc bạn đã đoán được rằng đó chính là cụ bà Vanga, nhà ngoại cảm tiên tri người Bungari. Tuy bị mù nhưng cụ có thể thấy và cảm giác được những thứ mà người thường không thấy được - thấy xác dưới đất hay chết trôi của những bà con người nào đó bị mất tích ở nơi này hoặc nơi khác, thấy được trước những cái chết và những cuộc chiến tranh xảy ra sau đó mấy năm, thấy được mặt của những người đã quá cố… Người ta kể rằng cụ đã báo trước cho ai đó về vụ Kursk sẽ bị chìm xuống đáy nước. Nhưng điều tiên đoán đó không ai tin và không ai để ý đến - bởi vì ai cũng nghĩ là thành phố Kursk nằm cách xa biển thì điều này không thể nào xảy ra được! Mãi đến năm 2000, khi chiếc tàu ngầm nguyên tử mang tên “Kursk” bị chìm xuống đáy biển Barentsevo gây ra cái chết của trên một trăm người, lúc đó người ta mới hiểu cụ nói về gì. Và bạn hãy hình dung xem người đàn bà mù lòa, cô đơn, rất nghèo nàn (mỗi người đến nhờ cụ xem… cụ chỉ lấy một cục đường mà thôi) đã hết năm này đến năm khác, theo yêu cầu của nhiều người, ngày ngày thấy xác người, thấy những nỗi đau khổ, kinh hoàng và những cuộc chiến tranh, thế mà cụ bà đã có hạnh phúc. Cũng như vậy, cụ bà người Albani, Mẹ Tereza, đã sống thanh thản, cảm thấy hạnh phúc lớn lao vì biết mình cần thiết cho mọi người, biết mình đang làm sứ mệnh trên cõi trần: cụ đã cùng các nữ tu Thiên chúa giáo cống hiến suốt đời mình để chữa trị và cứu đói cho trẻ em châu Phi. Bạn có thể làm được điều đó hay không? Bây giờ chúng ta hãy tạm định nghĩa sơ bộ về hạnh phúc như sau:

Hạnh phúc không phải là quá trình, không phải là sự sở hữu cái gì đó hay ai đó. Hạnh phúc là trạng thái của tâm hồn: lòng thanh thản, yên vui, sự thoả mãn, niềm tin tưởng, sự lạc quan, cảm thấy được sức mạnh bên trong và độc lập của mình, cảm giác an toàn, tự do lựa chọn, lòng bao dung, v.v... Bạn có đồng ý với cách định nghĩa như vậy không? Nếu không thì bạn hãy thử lý giải quan điểm của mình với bạn bè, cha mẹ, cô giáo và hãy hỏi xem quan niệm của họ về hạnh phúc thực sự như thế nào.

Chương 2 HẠNH PHÚC TUỲ THUỘC VÀO ĐÂU?

“... Những lợi thế chủ quan, như tâm hồn cao thượng, trí thông minh, tính tình dễ dãi, tinh thần vui vẻ và một cơ thể khỏe mạnh bẩm sinh là những điều kiện cơ bản tiên quyết cho hạnh phúc của chúng ta. Cho nên chúng ta phải quan tâm bảo tồn và phát triển các lợi thế đó nhiều hơn những lợi thế bề ngoài và vinh quang bề ngoài” - Arthur Schopenhauer (1788 – 1860), nhà triết học Đức.

– Tiếc thật, cốc rượu đã vơi mất một nửa! – Cậu nói lạ thế? Nó vẫn còn đầy một nửa cơ mà! Sướng quá!

Qua chương đầu, có lẽ bạn đã hiểu rằng hạnh phúc trước hết tuỳ thuộc vào quan niệm của chúng ta về cuộc sống, về bản thân và những người khác (ví dụ về cốc rượu đã vơi một nửa hoặc còn đầy một nửa). Điều này được minh hoạ qua chuyện tiếu lâm sau:

Giữa mùa đông băng giá, có một ông lão hành khất chân chỉ đi một chiếc giày. Chân kia không giày thâm tím vì lạnh. Một bà lão trông thấy, dừng lại, thở dài và xuýt xoa thương hại: – Ông lão tội nghiệp ơi! Chân ông đã đông lại và sưng to rồi kìa! Ông đánh mất chiếc giày phải không? Lão hành khất trả lời vui vẻ: – Mụ chả hiểu cóc gì cả! Chính lão đã nhặt được chiếc giày này!!!

Nhưng để hiểu được thấu đáo hạnh phúc là gì và làm thế nào để tìm ra nó thì không phải chỉ đọc hết cuốn sách này mà còn phải rèn luyện bản thân nữa. Không phải ngẫu nhiên nữ danh ca Nga Alla Pugacheva rất thích một trong những bài hát của chị, bài hát nói về kết quả của một đời người phụ nữ: “Bảy giờ “hạnh phúc” – cũng đã nhiều rồi!..”.

Vậy hạnh phúc của mỗi một người cụ thể tuỳ thuộc vào những gì? Nó tuỳ thuộc vào ít nhất vào bốn yếu tố:

- Sự di truyền - Hoàn cảnh sinh sống - Tính cách - Nỗ lực của bản thân

Chúng ta hãy xem xét yếu tố đầu tiên – sự di truyền (có thể tạm gọi là nghiệp). Yếu tố này quy định tầm vóc, dáng tai, màu mắt, tạng người béo (hay gầy), tàn nhang trên mũi, màu da, v.v… của chúng ta. May sao, mọi người trên Trái Đất này đều hết sức khác nhau! Có lẽ bạn ghen tị với cô Tanhya có mái tóc vàng đẹp nhất lớp? Có lẽ bạn cũng như các nữ sinh khác mơ ước được như cô ấy? Bạn cảm thấy mình bất hạnh vì bạn không phải là cô ấy. Mà như thế thì hoàn toàn không nên! Hãy hình dung xem nếu mơ ước của các bạn sẽ trở thành sự thật. Bạn bước vào lớp học và thấy trong phòng có đến hai chục cô gái hoàn toàn giống nhau. Bạn đi ra đường và thấy tất cả phái nữ đều trông như búp bê Barbi. Bạn có thích không? Chắc là tất cả giới mày râu ít lâu sau đó đều phát nôn chỉ vì nhìn thấy mọi người phụ nữ đều chân cao lêu nghêu, đi giày cỡ bốn hai! Chẳng lẽ bạn không nhớ câu tục ngữ Nga: “Không cần sinh ra là người đẹp mà hãy sinh ra là người hạnh phúc”? Vả lại, cũng có nhiều người lúc còn trẻ đã quá phóng đại những điểm yếu (thường là tưởng tượng) về thể chất của mình và nghĩ hoàn toàn không đúng rằng mọi người chỉ nhìn thấy ở họ đôi tai vểnh hay cái mông béo mà thôi. Thật là đáng buồn (và không thực tế) khi giao tiếp với bạn hết tháng này đến năm nọ mà không nhìn thấy hay không để ý cái gì khác ngoài đôi tai hay cái mông ấy. Những người xung quanh rất nhanh chóng không để ý đến chúng nữa. Những người đã trưởng thành hiểu được rằng những thứ đó chỉ là thứ yếu, không đáng kể. Nhưng riêng bạn thì phải sống tiếp mới hiểu được điều này. Nào, hãy lớn lên nhanh đi, chính bạn cũng muốn điều đó cơ mà! “Chẳng lẽ chỉ vì màu lông mà tôi sẽ không có hạnh phúc trên đời này ư?” - trích từ phim “Con cún xanh”. Có thể bạn ghen tị với cậu Mishka có chiều cao gần hai mét? Thế mà Hoàng đế Napoléon được coi là lùn trong số những người cùng thời của ông, vào cái thời mà mọi người nói chung đều thấp và chưa từng biết đến cái hiện tượng sinh học cuối thế kỷ 20 tầm vóc con người tăng vọt ở châu Âu, Nhật Bản và một số nước khác. Theo bạn, Tổng thống Putin có cao lắm không? Hay bạn nhận thấy rằng những người cao hơn thì ít có khả năng bị chết vì ung thư hay ít bị tai nạn ô tô hơn, và nói chung là hạnh phúc hơn nhiều so với những người khác? Thế thì tầm vóc có nghĩa lý gì đâu? Bạn ạ, đã đến lúc cần khôn hơn một chút! Tất nhiên, ngày nay có thể nâng bộ ngực, sửa mũi cao thon, cắt mắt hai mí, lột và tẩy da mặt hay làm bất cứ một giải phẫu thẩm mỹ nào. Thậm chí còn có người chịu làm giải phẫu để thay đổi giới tính nữa, chẳng hạn đàn ông biến thành đàn bà! Tôi không muốn nói đến hạng người rồ dại đó. Nhưng thử hỏi, có nên làm giải phẫu thẩm mỹ hay không? Thứ nhất, giá rất đắt. Thứ hai, chẳng ai bảo đảm cho bạn kết quả sẽ tốt, chứ không xấu đi. Vả lại, cái mũi Hy Lạp mới thay thế cho cái mũi tẹt trước đây, chắc gì nó lại hợp với dáng người lùn thấp, lông mày vàng nhạt, khuôn mặt tròn và dáng bề ngoài đầy vẻ Slavơ của bạn. Tôi nhớ có lần tôi thấy trên Internet hình của một phụ nữ. Tôi để ý đến tấm hình này, nhưng không thể hiểu được vì sao mà tôi thấy ghê tởm với vẻ ngoài của bà ta. Sau khi đọc dòng chữ, tôi mới hiểu: hoá ra đây là hình ảnh của một “hoa khôi lý tưởng” được tạo nên bởi những phần của khuôn mặt và cơ thể của những người đàn bà đẹp nhất khác nhau nổi tiếng trên thế giới như Bridgitt Bardo, Marilyn Monroe (nữ diễn viên điện ảnh đẹp nổi tiếng – ND), của các “siêu mẫu” (Top-model) lừng danh, v.v... Mũi mượn của cô này, chân mượn của cô khác, bộ ngực lấy từ cô nọ, đôi tai lấy từ cô kia và tạo nên cái dáng người được coi là “đẹp lý tưởng”. Thế mà chân dung có vẻ như xác chết. Hình ảnh người phụ nữ trong tranh thật kinh tởm! Cái chính là khi bạn làm những việc giải phẫu thẩm mỹ không cần thiết, vừa tốn tiền vừa có hại như vậy, tôi tin chắc là bạn đã làm những điều phản bội. Bạn không biết những điều gì chăng? Thứ nhất, bạn phản bội chính mình, bởi vì bạn đã chối bỏ những cái bạn từng có. Bạn đã tỏ ra là bạn không tôn trọng mình, thế thì làm sao những người khác sẽ tôn trọng bạn? Bạn có anh bạn nào không? Anh ta có khiếm khuyết về mặt hình thể không? Tất nhiên là có, vì bạn của bạn chắc gì đã là Alen Delon (nam diễn viên điện ảnh Pháp nổi tiếng – ND). Chẳng lẽ bạn kém tôn trọng anh ta vì vậy hay sao? Chẳng lẽ chỉ vì đôi tai anh ta vểnh, hàm răng vẩu hay một cái gì đó tương tự lại làm cho tình bạn của hai người bị giảm đi hay sao? Chẳng lẽ bạn chọn bạn bè theo bề ngoài à? Lẽ nào bạn ngây thơ đến thế ư? Lẽ nào bạn quên câu tục ngữ: “Cái nết đánh chết cái đẹp” rồi sao? Thứ hai, bạn phản lại chính tổ tiên của bạn – cha mẹ, ông bà và tất cả các cụ kỵ trước đây của bạn, những người mà bạn chưa hề thấy mặt và không hề biết gì, nhưng không phải vì thế mà không cùng chung huyết thống với bạn, chứ không phải với ai khác. Bởi vì bạn đã chối bỏ đi những gì mà tổ tiên đã truyền cho bạn từ đời này sang đời khác, những gì kết tinh trong bạn và làm cho bạn trở nên “độc nhất, vô nhị”, như bạn hiện nay. Và bạn sẽ cảm thấy thế nào, nếu như đến lượt con cái bạn cũng trách bạn vì đã truyền lại cho chúng những khiếm khuyết này nọ trong cái vẻ ngoài mà bọn chúng hoàn toàn không thích (mà thường thường những khiếm khuyết ấy chỉ là tưởng tượng của chúng hay hoàn toàn không đáng kể mà chẳng ai để ý tới, ngoài bọn chúng)? Cuối cùng, thứ ba, nếu bạn là người có tín ngưỡng, chẳng hạn theo đạo Chúa, thì bạn còn phản lại Đức Chúa Trời của bạn, người đã tạo ra bạn theo ý định của riêng Ngài, hơn nữa lại tương tự như Ngài. Có thể bạn sẽ nói: chẳng lẽ Đức Chúa Trời lại có đôi chân cong và nốt ruồi trên má? Ngài tạo ra mỗi người chúng ta tương tự như Ngài, trước hết là ở khía cạnh tâm hồn. Nếu Ngài quan tâm đến thể xác ít hơn tâm hồn thì chẳng qua vì Ngài am hiểu và anh minh hơn chúng ta rất nhiều. Hãy theo quan điểm này và bình tâm lại khi nghĩ đến cái vẻ bề ngoài hoàn toàn bình thường của bạn. Chẳng lẽ bạn muốn tự tay tạo nên chính bạn thay cho Đức Chúa Trời hay sao? Bạn có cao ngạo quá không đấy? Đừng như thế, bạn ơi! Hãy hướng nguồn năng lượng của mình vào cái gì đó thực tế hơn, cái gì đó xứng đáng với những cố gắng của bạn và có thể đem lại cho bạn nhiều hạnh phúc hơn. Còn nếu bạn là người theo đạo Phật, thì như thế là bạn đã làm trái hẳn lời Đức Phật dạy. Ngài dạy rằng thân con người, cũng như vạn vật quanh ta, là sự kết hợp của bốn yếu tố đất, nước, lửa và gió, một sự kết hợp giả tạm, không bền vững, không trường tồn. Đối với thân người, cái cần lo là sức khoẻ, vì có sức khoẻ mới tu tập và làm việc có ích cho đời được. Chứ không phải là chăm chút quá đáng cái thân, nhất là ngoại hình của nó, vì cái thân là giả tạm. Còn cái đáng chăm chút nhất trong con người chính là cái tâm, tức là tấm lòng, tâm hồn, tâm linh. Ngài dạy rằng phải chăm chút, tu dưỡng cái tâm của mình, nghĩa là phải chế ngự, điều phục, hàng phục cái tâm xấu, phòng hộ, bồi dưỡng cái tâm tốt, làm cho tâm mình ngày càng từ bi, hỷ xả (hướng thiện), tâm hồn mình ngày càng trong sáng, thanh cao (hướng thượng). Được thế thì mình luôn luôn được yên vui, thanh thản, dù đời vẫn là biển khổ. Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada): “Biết thân này như hũ sành dễ vỡ, phòng hộ tâm như củng cố thành trì” (câu 60). Còn Ngài Nagarjuna (Long Thọ), một vị Tổ sư đạo Phật hồi thế kỷ thứ hai, cũng nói: “Phật pháp lấy tâm làm gốc, lấy thân làm ngọn”. Nói chung, khó có thể làm được gì với sự di truyền, mà cũng chẳng đáng phải làm gì cả, cho nên phải chấp nhận nó và bình tâm lại. Phải chấp nhận nó như là một thực tế không thể tránh khỏi, thế thôi. Cần phải luôn luôn nhớ lấy câu châm ngôn hữu ích này: “Lạy Trời, xin hãy cho con sức lực để vượt qua cái con có thể vượt qua, hãy cho con sức chịu đựng để chịu được cái con không thể khắc phục được, và hãy cho con sự minh mẫn để phân biệt được cả hai điều trên!”. Câu châm ngôn này có thể trở thành phương châm hành động cho cả cuộc đời bạn. Vì thế, hãy đến bác sĩ lúc thật sự cần thiết, như bị tật sứt môi, có ngón tay thừa hay cái gì đó tương tự. Chỉ nên thay đổi vẻ ngoài của bạn một khi thực sự có thể nói: “Với cái bản mặt thế này thì không nên vác mặt ra phố”. Một số người còn thấy khó chịu chỉ vì cái tên hay cái họ của mình, có khi thấy khốn khổ vì chúng. Sướng thật đấy, bạn ạ, nếu bạn không có lý do nào khác để buồn! Việc này thật ra rất đơn giản: nếu như bạn có cái tên Tống Văn Ục mà bạn không thích, thì việc xin đổi tên chẳng có vấn đề gì cả. Đổi xong thì hãy sống cho yên. Nhưng với tính cách của bạn như vậy, thì bạn sẽ lại tìm ra cái gì đó nữa để tự làm khổ mình và những người xung quanh. Tính cách của bạn là như vậy đấy. Tuy nhiên, tuỳ bạn, nếu bạn thích tự làm khổ mình mãi, thì xin cứ việc! Chỉ có điều không phải ngẫu nhiên nhà tâm lý học Mỹ nổi tiếng Dail Carnegi đã nói: “Hãy chấm dứt đau khổ mà bắt đầu vui sống!”. Tất nhiên, không chỉ những đặc điểm bề ngoài mà cả những điểm bên trong, tức là tính cách, cũng được di truyền. Nhưng điều này chúng ta sẽ nói sau. Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến số phận, tức là ảnh hưởng đến hạnh phúc, là hoàn cảnh sinh sống. Cũng dễ hiểu là hoàn cảnh sinh sống mỗi người một khác. Có người sinh ra trong gia đình nghiện rượu, có người sinh ra trong gia đình tướng tá. Có người sống trong căn hộ năm phòng ở trung tâm thủ đô, còn người khác thì sống nơi khỉ ho cò gáy trong túp lều dột nát bên cạnh nhà máy bê tông. Có đứa trẻ được bố chở trên chiếc xe hơi sang trọng đến trường, có đứa phải bụng đói đi học bởi vì mẹ nó đã nửa năm trời không được lĩnh lương, v.v... và v.v... Thế thì có thể làm gì được? Thứ nhất, như bạn đã hiểu – không được mặc cảm tự ti, bởi vì lúc đầu phải chấp nhận hoàn cảnh sinh sống như một thực tế không tránh khỏi cũng như họ và tên. Sau đó, nếu bạn muốn thay đổi hoàn cảnh ấy thì cũng phải đặt vấn đề một cách nghiêm túc và thiết thực để mà phấn đấu - chỉ như thế mới có khả năng thành công. Thứ hai, trước hết cần phải khách quan đánh giá những hoàn cảnh cụ thể. Bạn hãy lấy một tờ giấy kẻ làm hai cột và hãy gắng điền thật cụ thể trên hai cột ấy: bên trái là những điểm mạnh (đánh theo số), bên phải là những điểm yếu của tình huống. Ví dụ:

Nơi ở: Thành phố “Đèo-Heo-Hút-Gió”

Điểm mạnh Điểm yếu 1. Bên cạnh là một con sông tuyệt vời 1. Thành phố nhỏ, hẻo lánh 2. Sống với bố mẹ 2. Không có trường đại học mình muốn học 3. Có nhiều bạn bè 3. Buồn tẻ, chẳng có nơi nào giải trí cả 4. Đi đâu cũng chỉ đi bộ, không mất tiền đi xe, tiết kiệm thì giờ 4. Không có tương lai 5. Ăn rau quả hái trong vườn nhà bà nội là những thực phẩm không có hoá chất. Sẽ khỏe hơn, ít vấn đề về sức khỏe hơn. 5. Sợ không tìm được người chồng vừa ý 6. Thành phố yên bình – đi trên đường thậm chí lúc đêm khuya cũng không sợ bị giết hay bị đánh cho tàn phế. 6. Ngay cạnh nhà là nhà máy, thiếu không khí để thở, không khí nhiễm độc 7. Có nhà nghỉ, nơi có không khí trong lành, cũng rất tốt cho sức khỏe. 7. Rất xa Moskva và Paris

Tương tự như thế có thể đánh giá gia đình, sự di truyền, tính tình, trình độ học vấn, nghề nghiệp chuyên môn, người bạn của mình, v.v... và v.v... Thậm chí có thể đánh giá theo từng điểm về từng hành động riêng (trong hiện tại hay tương lai), từng đồ vật riêng. Bạn đã hiểu nguyên tắc rồi chứ? Thật đáng ngạc nhiên, hoá ra là nếu bạn suy nghĩ kỹ một chút thì trong hoàn cảnh của bạn tính ra có thể có nhiều điểm mạnh hơn là điểm yếu. Giả dụ, cha bạn là người nghiện rượu, nhưng ông có thể rất tốt, hiền lành và nhu nhược, còn người bố là vị tướng thì lại hung ác và độc đoán đến nỗi bị người lính hầu của ông bắn chết. Hay ví dụ như bạn sống ở nơi xa xôi hẻo lánh và mơ ước về đường công danh ở thành phố lớn thì chưa chắc bạn đã tính đến những điểm yếu như độ khói bụi cao (làm khó thở và tăng khả năng bị các bệnh đường hô hấp), tiền thuê nhà phải trả cao, mất nhiều thời gian và tiền đi đường, không có người thân thích và bạn bè, thị trường lao động cạnh tranh cao vì có vô số nhạc sĩ, ca sĩ, đạo diễn, những nhà thiết kế quần áo mốt và những người làm các ngành nghề tương tự có vẻ rất hấp dẫn đối với bạn. Điều tôi muốn nói ở đây là: nếu bạn muốn được hạnh phúc, mơ ước làm ca sĩ hay nghệ sĩ múa trên sân khấu Nhà Hát Lớn, thì hãy suy nghĩ kỹ trước khi lao vào đó, trước khi coi mình là bất hạnh nếu điều ấy không thành: hãy tự hỏi mình - có làm nổi điều ấy hay không? Bạn có thể vượt qua được hoàn cảnh không? Có đáng làm chuyện đó hay không? Bạn có mất nhiều hơn những thứ đạt được, và bạn có đạt được điều mong ước hay không? Tôi không có ý định cản trở bạn làm việc lớn, nhưng dù sao cũng phải làm việc này một cách thông minh, có suy tính. Làm việc lớn là một chuyện, nhưng lao vào những trò mạo hiểm lại là chuyện khác. Cần phải sáng suốt đánh giá các tình huống của mình, và trong chừng mực có thể, phải nhìn cuộc sống và tình hình thực tế từ những chiều hướng khác nhau một cách thật khách quan, thế là được! Khi đó mới có nhiều khả năng là bạn sẽ đạt được mục đích của mình và bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn trước kia. Nếu bạn sẽ không bao giờ trở thành nữ nghệ sĩ balê vì chân hơi ngắn, hoặc nếu bạn sẽ không bao giờ được sống ở Paris mặc dù bạn mơ ước cả ngày liền đêm, thì có thật đáng đau buồn hay không? Đừng rước vào mình những nỗi buồn không đâu, mà hãy đặt ra cho mình những mục đích thực tế, hãy giải quyết những vấn đề thực tế, và lúc đó chắc bạn sẽ có hạnh phúc hơn nhiều so với các bạn của mình. Họ sẽ ngạc nhiên và hỏi bạn: bí quyết hạnh phúc của cậu là ở đâu? Và bạn có thể trả lời một cách tự hào rằng: “Bởi vì tớ rất khôn mà thôi!”

Còn về những danh ngôn sau đây thì bạn nghĩ gì?

“Nếu tâm hồn hờ hững, con tim chai đá thì không bao giờ thành tựu được việc gì hết. Còn nếu con tim thanh thản, tâm hồn an bình thì hạnh phúc tự tìm đến với bạn”. – Danh ngôn Trung Quốc.

“Các anh coi thức ăn ngọt ngào, quần áo sang trọng, đủ loại xa xỉ phẩm là hạnh phúc. Còn tôi thì nghĩ rằng không có gì đáng mong muốn hơn là niềm hoan lạc lớn lao nhất trong tâm hồn, mà để có được niềm hạnh phúc tối thượng đó thì phải tập cho mình chịu thiếu thốn một ít”. – Socrate (468 – 399 trước CN), nhà triết học Hy Lạp cổ đại.

“Tôi hiểu rằng đạt được hạnh phúc dễ hơn khi biết hạn chế những ham muốn của mình, hơn là tìm cách thoả mãn chúng”. - John Stuart Mille (1806 – 1873) nhà triết học và kinh tế Anh.

“Không thể làm cho con người có hạnh phúc, nếu không làm cho họ có đức hạnh” . - Emmanuel Kant (1724 – 1804), nhà triết học Đức.

“Nếu thật sự muốn được hạnh phúc, không có cách hành xử nào khác ngoài con đường đạo đức: đó là phương pháp để đạt tới hạnh phúc”. – Tenzin Gyatso (sinh 1935), Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 của nước Tây Tạng.

“Có nhiều cách định nghĩa hạnh phúc chứng tỏ rằng chúng ta không hiểu gì về nó cả” - Pierre Bouast (1765 – 1824), nhà từ vựng học Pháp.

“Khoái lạc là hạnh phúc của những kẻ ngu ngốc, hạnh phúc là khoái lạc của những bậc đại hiền” – Stanislas Boufflers (1737 – 1815), nhà hoạt động chính trị và nhà văn Pháp.

Nói với các bậc cha mẹ, ông bà

Quý vị thân mến! Nếu quý vị cảm thấy rằng con cháu của quý vị thường hay mặc cảm vì nhiều lý do khác nhau và điều đó làm chúng thất vọng, mất hứng trong cuộc sống, làm chúng nhu nhược hay tự ti, thì hãy kịp thời có những biện pháp cần thiết. Một trong những biện pháp tôi đề nghị để thay đổi tình huống và cách tự đánh giá của của con cháu quý vị là thường xuyên nên chơi với trẻ trò “thật là tuyệt...”, “con nên biết rằng không có gì đáng buồn khi...”, “nếu như..., thì còn tồi tệ hơn”. Làm thế nào chơi trò như vậy? Giả dụ đứa trẻ buồn vì không có bố sau khi bố mẹ ly dị nhau (thực ra, ngày nay tình huống ấy có khi nhiều hơn là số gia đình có đầy đủ cả bố lẫn mẹ). Trong trường hợp này có thể lặp đi lặp lại những câu sau (tất nhiên, không phải dùng những lời như nhau mà cố gắng đưa ra những chứng cứ khác nhau): “Con có biết không, chẳng có gì đáng buồn vì mẹ phải ly dị với bố con. Thật may vì mẹ đã làm điều đó kịp thời. Nếu chúng ta còn sống cùng ông ấy thì còn tồi tệ hơn. Con biết đấy, ông ấy tính hung bạo lắm. Làm sao con có thể thích được mỗi lần ông ấy đánh đập con vì không học thuộc bài hay chửi mắng con. Mẹ đối xử với con đàng hoàng, chứ ông ấy chỉ dùng roi vọt với con mà thôi. Con hình dung xem, nếu có bố thì thật kinh khủng như thế nào?” Hoặc là con cháu các vị bị ốm hay vì một lý do nào khác không thể đi nhảy disco, đến nhà bạn hay đi chơi đâu đó, v.v... Nó buồn, buồn lắm, mà thật ra không đáng buồn nhiều như vậy (theo nhận xét của các vị). Có thể nói với nó điều gì trong trường hợp này? Ví dụ như: “Thật là tuyệt, bây giờ chúng ta có một ít thì giờ để cùng nhau đọc cuốn sách này. Trong cái rủi có cái may, con ạ. Mẹ từ lâu đã muốn làm việc này với con rồi”. Thay vì đọc sách cũng có thể cùng với trẻ sắp xếp lại cuốn album sưu tầm tem (mặc dù, thật ra, có thể các vị hoàn toàn chẳng có thú vị gì với mấy con tem này và chẳng có thì giờ để làm chuyện ấy nữa, nhưng vì con cháu các vị phải cố dành thời gian làm chuyện ấy), may vá váy áo, trồng lại chậu cây cảnh, thay nước bể cá - nói chung tất cả những việc gì có thể thu hút con cháu các vị và làm chúng quên nỗi buồn phiền. Về việc này tôi rất khuyên các vị đọc cho hết cuốn sách kỳ diệu có tên “Pollianna” của nhà văn nữ người Mỹ nổi tiếng Elinor Porter (1868 – 1920) và tốt hơn hết là đọc cùng con cháu quý vị. Sách được xuất bản lần đầu tiên năm 1912. Từ đó, cuốn sách đã được tái bản lại nhiều lần bằng các thứ tiếng khác nhau trên thế giới và đã trở thành sách cổ điển của văn học thế giới. Cuốn sách này dành cho trẻ em, là cuốn sách văn học được viết hết sức sống động. Nhưng nó cũng giống như chuyện ngụ ngôn hay bài giảng đạo bởi vì nó dạy mọi người cả trẻ em lẫn người lớn phải sống thế nào để có hạnh phúc. Tuy xuất bản đã lâu nhưng “Pollianna” cũng vẫn thiết thực cho đến tận ngày nay. Đã có vài bộ phim được dựng theo tác phẩm này, trong một phim có cả ngôi sao điện ảnh Mỹ Marry Pickford (1893-1979) đóng vai cô bé Pollianna.

Chương 3 TÍNH CÁCH CỦA BẠN. CÁC CẤP ĐỘ TƯ DUY

“Thế giới quan, quy mô hoạt động và tiếp xúc của chúng ta càng hẹp bao nhiêu thì chúng ta càng có hạnh phúc hơn bấy nhiêu; càng rộng hơn thì chúng ta càng cảm thấy giày vò và lo lắng hơn. Chúng càng mở rộng bao nhiêu thì những ham muốn, những bận rộn và lo lắng của chúng ta càng nhân rộng và lớn lên bấy nhiêu”. – Arthur Schopenhauer (1788-1860), nhà triết học Đức.


Như đã nói và bạn cũng biết rõ, hạnh phúc con người tuỳ thuộc trực tiếp vào yếu tố thứ ba – tính cách của người ấy. Người dễ tính thì cuộc sống dễ hơn. Cuộc sống của người khó tính nhiều khi rất khốn khổ. Mặc dù tính cách phần lớn do di truyền, nhưng cũng có thể phần nào biến đổi nó theo hướng tốt. Hay là ít ra phải phân tích, tìm hiểu về bản thân mình: mình có những đặc tính gì và có thể hy vọng được gì với những đặc tính như thế. Đây là một đề tài lớn và phức tạp, nên chúng ta phải nói về tính cách ở một chương riêng. Bạn còn trẻ hiểu về mình còn quá ít, và chưa hoàn toàn hình thành nhân cách. Hơn nữa, nên nhớ rằng tâm tính con người hình thành trong hàng chục năm trời, và thực ra con người thay đổi suốt đời. Cho nên lúc mới vào đời (và nói chung không chỉ lúc đó), rất cần tìm hiểu xem bạn đang là người như thế nào, cha mẹ bạn truyền lại cho bạn tính cách gì? Điều này chắc bạn rất muốn biết, phải không? Không chỉ thú vị mà còn có ích nữa, vì bạn sẽ biết được mình đang có cái vốn tinh thần như thế nào, làm thế nào để sử dụng nó, những điểm yếu của bạn là gì. Kẻ thù của bạn có thể lợi dụng những điểm yếu đó để biến bạn thành con rối điều khiển từ xa của chúng. Bạn sẽ đặt câu hỏi: bằng cách nào có thể làm như thế được? Đừng sốt ruột, tôi sẽ trả lời sau. Bây giờ mời bạn đọc giai thoại dưới đây.

Piôt Đại Đế xây dựng thủ đô mới trên bờ sông Neva. Có một bận, Ngài đi vi hành thị sát xem mọi người làm việc như thế nào. Ngài cải trang thành thường dân và bí mật vào thành. Ngài gặp một đoàn ngựa thồ. Thấy người lái xe ngựa nào Ngài cũng đặt cùng một câu hỏi: “Ông đang làm gì ở đây vậy?”. Những người này trả lời Ngài như sau: Người thứ nhất: Tôi đang chở đá, ông không thấy à! Người thứ hai: Tôi đang làm việc để nuôi gia đình tôi! Người thứ ba: Sao ông lại hỏi thế?! Tôi đang xây nhà thờ Thánh Isaak mà! Người thứ tư: Ông có tưởng tượng được không, tôi đang xây thành phố trên bờ sông Neva! Người thứ năm: Tôi đang mở một cửa ngõ sang châu Âu đây!

Bạn hãy nghĩ xem, câu chuyện trên nói lên điều gì? Bạn đã đoán ra chưa? Câu chuyện thật ra không kể về Nga hoàng, về đá, về những người lái xe ngựa, mà kể về những týp người khác nhau, về những tính cách khác nhau. Câu chuyện kết thúc như sau:

Và lúc ấy, Nga hoàng Piôt Đệ Nhất quyết định để người thứ nhất vẫn làm lái xe ngựa thồ, ban cho người thứ hai làm chủ thầu xây dựng, người thứ ba làm trợ lý kiến trúc sư, người thứ tư làm trợ lý cho thị trưởng và người thứ năm làm trợ lý cho Ngài.

Những người lái xe ngựa thồ nói trên khác nhau ở chỗ nào? Kiểu nhân cách của mỗi người ra sao? Người thứ nhất chỉ nghĩ đến bản thân, ông ta chỉ thấy những tảng đá mà thôi. Người thứ hai, tất nhiên, cũng thấy những tảng đá mà ông đang chở, nhưng ông còn biết nghĩ đến những người khác là gia đình mình. Người thứ hai chín chắn hơn, có trách nhiệm hơn. Người thứ ba cũng nuôi sống gia đình bằng sức lao động của mình, nhưng ông ta nghĩ rộng hơn – ông đã hình dung được thiết kế công trình đang xây dựng. Ông không chỉ vượt khỏi ranh giới của những nhu cầu sinh lý bình thường mà còn biết nuôi sống gia đình, ngoài ra, ông còn có những mối quan tâm khác, ông nhìn xa trông rộng hơn, bởi vì ông nhìn thấy thế giới quanh mình (tuy vẫn còn khá hẹp). Người thứ tư tư duy bằng phạm trù của cả thành phố, còn người thứ năm thì có tư duy thật sự trên quy mô quốc gia, bởi vì ngoài bản thân, gia đình, nhà thờ và thành phố, ông còn nhìn thấy cả thế giới! Phần kết thúc câu chuyện chỉ cho chúng ta thấy cái địa vị xã hội nào mà mỗi người có thể hy vọng đạt được tuỳ theo những kiểu nhân cách khác nhau, tuỳ theo tầm nhìn và cấp độ tư duy khác nhau. Bạn hiểu rồi chứ? Ta có thể vẽ một sơ đồ với những vòng tròn đồng tâm, biểu hiện những hình cầu đồng tâm khác nhau. Vòng trong cùng là chính bạn, những quan niệm của bạn, những ý nghĩ về bản thân và những công việc của bạn (nhằm nuôi sống mình, mua sắm quần áo cho mình, nhằm đạt được cái gì đó cho bản thân mình). Mỗi đứa trẻ đều bắt đầu từ “cái trứng” đó, rồi từ đấy tuỳ theo mức độ trưởng thành dần dần sẽ chuyển sang những hình cầu khác bên ngoài. Hình cầu tiếp sau được vẽ bằng vòng tròn thứ hai là những người gần gũi nhất của bạn: bạn bè, cha mẹ, anh chị em, về sau là con cái bạn, còn hiện tại là các bạn học cùng lớp, chúng bạn cùng chơi trong sân, v.v... Bạn rất muốn trở thành người lớn để người khác không còn phải nói: “Tránh ra, đừng chõ miệng vào! Có ai hỏi mày đâu, đồ vắt mũi chưa sạch, mày thì hiểu cái gì?”. Để trở thành người lớn hơn thì phải học cách tư duy rộng hơn và biết chịu trách nhiệm không phải chỉ về bản thân mình mà còn về những người khác nữa. Bước chuyển lên cấp độ tư duy cao hơn của bạn được thể hiện bằng những ý nghĩ và những hành động của bạn đem lại lợi ích cho người khác. Nếu bạn giúp bố mẹ cuốc đất trong vườn, giúp người bạn sửa xe đạp và em gái học bài thì bạn không còn là người ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình nữa. Cũng dễ hiễu, trong hoàn cảnh bình thường, mỗi người trước hết đều nghĩ đến mình trước – anh ta còn phải ăn uống, mua sắm quần áo, chữa bệnh, học hay làm việc, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Nếu một người là kẻ ích kỷ cố hữu và chỉ nghĩ đến bản thân thì anh ta sẽ không có bạn và người yêu, chẳng ai cần anh ta cả vì không ai thích giao du với anh ta. Đây là con người ở cấp độ tư duy đầu tiên, cấp độ cơ sở (từ ngữ tâm lý học - ND). Hãy nghĩ xem bạn có như vậy không? Nên biết rằng con nít và thiếu nhi phần lớn là ích kỷ, điều ấy cũng thường thôi, vì tính ích kỷ do lứa tuổi và địa vị xã hội chúng mà ra. Khi còn nhỏ, dĩ nhiên, trẻ con chưa trả ơn được cho ai mà chỉ nhận sự săn sóc của người lớn, nếu không thì chúng làm sao sống nổi. Chúng chưa thành người lớn, chưa có tinh thần trách nhiệm, chưa học hành xong, chưa có nghề nghiệp, chưa lập gia đình, chưa làm việc, và hiện nay, chúng chưa có gì để cho người khác. Bạn cũng như thế chứ? Vậy thì bạn là con người hạnh phúc bởi vì bạn còn rất trẻ và tất cả đang chờ đón bạn trong tương lai. Nhưng, nếu giả sử bạn đã ba mươi tuổi hay nhiều hơn nữa, mà bạn vẫn còn ở cấp độ đó thì thật ra bạn vẫn chưa ra khỏi tuổi thơ ấu. Kiểu nhân cách như vậy thường hay có ở những người nhi tính (từ ngữ tâm lý học, người lớn mà tính trẻ con – ND), ở những tên tội phạm bất trị, ở những kẻ hành khất, ở những người vì lý do nào đó không học được cách ứng xử với người khác (có thể là họ có tính nhút nhát cố hữu, có thể là tâm thần không bình thường hay là ngay từ nhỏ phải sống trong điều kiện đặc biệt hay ngặt nghèo nào đó), ở những người kỳ quặc, những người bị bệnh thần kinh phát chứng, hay những người say mê chỉ một việc gì đó. Chẳng hạn, có những người chẳng cần biết một thứ gì khác ngoài cái máy tính. Họ ngồi bên nó cả ngày liền đêm mà thực ra là suốt đời. Cho nên mới có chuyện tiếu lâm như sau về loại người này:

- Anh yêu ơi, đêm nay về nhà em chơi nhé! - Em cưng, anh thì sẵn sàng thôi, nhưng chồng em ở nhà cơ mà? - Lão chẳng có nhà đâu, lão vào Internet rồi.

Cùng týp người “ghiền” Internet, có thể là người không quan tâm gì khác ngoài bộ sưu tập tem hay chiếc ô tô của anh ta, ngoài cái biệt thự hay quần áo mốt nhất của anh ta. Về những người này có chuyện tiếu lâm rất hay như sau:

- Sao chúng ta cứ nói mãi về tôi và chỉ về tôi thế nhỉ? Nào, hãy nói về anh đi chứ! Anh có thích chiếc xe ô tô mới của tôi không?

Cùng týp người cực kỳ phiến diện như thế là những kẻ nghiện ma túy hay bợm rượu. Về những người này có rất nhiều chuyện tiếu lâm, đại loại như:

Có một ông lão ngồi câu cá bên bờ hồ. Câu được con cá vàng thần. Cá vàng van nài ông: - Xin thả tôi ra, tôi sẽ thực hiện ba điều ước của ông! Ông lão mừng rỡ và nói: - Hãy biến nước trong hồ thành rượu vodka! Nói là làm, cá quẫy đuôi, nước trong hồ biến ngay thành rượu vodka. Ông lão quỳ xuống uống lấy uống để ngây ngất. Con cá nói: - Điều ước thứ hai của ông là gì? Ông lão trả lời: - Lão muốn nước trong tất cả các biển và đại dương đều biến thành vodka cả! Con cá đồng ý, quẫy đuôi một cái, và nước trong tất cả các biển và đại dương đều trở thành rượu vodka. Con cá lại hỏi tiếp: - Thế điều ước thứ ba của ông là gì? Ông lão gãi đầu gãi tai, suy nghĩ rõ lâu, rồi lè nhè nói: - Cho lão thêm... một cút rượu nữa!

Khi con cá thần đã thực hiện ba điều ước của ông lão, tất nhiên là hạnh phúc của ông lên đến tột đỉnh. Tôi nghĩ rằng hạnh phúc sẽ kéo dài hết suốt đời còn lại của ông, nhưng chắc là ông không còn sống được lâu nữa. Thế thì bạn có muốn hưởng hạnh phúc như vậy hay không? Tôi chắc là không. Vì đó là cái hạnh phúc của một người thô thiển, hoặc hết sức phiến diện. Còn người không cần gì cả ngoài bộ sưu tập tranh (hay bộ sưu tập các loại hộp diêm, tem, xe hơi cổ, cây xương rồng, v.v...), ngoài việc “lang thang” trong Internet, hoặc ngoài những bộ quần áo mới, v.v... và v.v... – týp người như thế cũng không khác gì mấy ông lão trong chuyện tiếu lâm Nga trên đây.

Nếu một người đã lớn rồi mà thuộc týp này thì không nên lập gia đình làm gì – anh ta sẽ không muốn và không thể quan tâm đến gia đình mình, và còn làm cho “người bạn trăm năm” của anh ta bất hạnh nữa. Nếu bạn đang mơ ước có một gia đình bình thường thì hãy tránh xa những người như vậy, cho dù họ có xinh đẹp, đặc sắc, giàu có, duyên dáng và bạn rất yêu người ấy đi chăng nữa. Bạn sẽ không bao giờ sống hạnh phúc được với người ấy cả! Týp người thứ nhất, thô thiển, loại cơ sở, có hạnh phúc đến mức độ nào? Người ấy tốt hay xấu? Thật khó nói – anh ta là người như vậy, thế thôi. Rất có thể anh ta có hạnh phúc. Bởi vì nội tâm anh ta không đến nỗi phức tạp lắm, nên anh ta tìm thấy hạnh phúc có khi dễ hơn so với những người týp phức tạp hơn. Anh ta tự thấy hạnh phúc với bản thân vì anh ta chẳng cần ai cả. Nếu anh ta có những thứ cần thiết nhất cho cuộc sống, cộng thêm một thứ thú riêng (một hobby) thì anh ta không cần gì hơn nữa. Nếu bạn thuộc týp người cơ sở thì không nên cố gắng vươn tới lý tưởng của loại người khác, đừng có ghen tị với họ, đừng có tranh cử làm dân biểu, làm thủ lĩnh, làm lãnh tụ. Những thứ ấy không phù hợp với bạn, cứ để cho những người khác làm việc đó, nếu không thành ra bạn lại đuổi theo kiểu hạnh phúc của người khác và ở vào địa vị không phải của mình. Nếu bạn không muốn mãi mãi làm đứa trẻ, và ngoài bản thân mình, bạn còn muốn nhìn thấy những người khác nữa và thế giới xung quanh, thì hãy đi tiếp, hãy tiến lên cấp độ thứ hai, hãy phá vỡ cái vỏ bọc của vòng tròn bên trong mà vươn lên hình cầu thứ hai. Để chuẩn bị cho cuộc sống người lớn và đạt được cái gì đó lớn hơn, thì hãy quan sát những người xung quanh, hãy hình dung những mối quan tâm, những điều lo lắng, trách nhiệm và những khó khăn của họ. Hãy giúp đỡ người khác, hãy học cách giao tiếp với họ, giải quyết những va chạm và dàn xếp ổn thoả với người khác. Khi bạn không dàn xếp được với những người xung quanh, thường xuyên va chạm hay cãi nhau, không biết thoả thuận cho ổn thoả, có nghĩa là bạn vẫn chưa thoát khỏi cái tuổi thơ, bạn vẫn chưa lên được cấp độ thứ hai và có nguy cơ bị dừng lại ở cấp độ thứ nhất suốt đời. Chẳng lẽ bạn muốn suốt đời quanh bạn không có người thân mà chỉ có những người dửng dưng hay kẻ thù, chẳng lẽ bạn muốn mọi người coi bạn là người hung dữ hay thô bạo, v.v... và v.v... và mọi người đều xa lánh bạn ư? Chẳng lẽ bạn muốn sống suốt đời với sự cay cú, bực dọc, ghen tị những người khác có cuộc sống tốt hơn hay sao? Chẳng lẽ bạn lại muốn suốt đời cảm thấy mình bất hạnh, bị bỏ rơi và luôn luôn tự hỏi mình: “Tại sao mọi chuyện của mình đều xấu tệ đến thế, mình có gì dở hơn những người khác? Mình có phải là kẻ sứt môi lồi rốn đâu, mình cũng tốt nghiệp đại học đàng hoàng và có nghề nghiệp tốt mà tại sao đời mình lại chẳng ra gì!”? Thế thì vấn đề không phải ở chỗ nghề nghiệp, cũng không phải ở vẻ ngoài hay là thu nhập của bạn mà chính là ở tính cách của bạn. Cho nên, nếu bạn không muốn rơi vào tình huống nói trên, thì hãy tự thay đổi đi! Hãy đọc tiếp cuốn sách này, hãy học, học nữa và học mãi... Bạn có nhớ không, người chở xe ngựa thứ ba có trình độ phát triển cao hơn. Và bạn cũng thế, phải tiếp tục phát triển thêm. Nếu bạn đã học được cách hiểu những người thân của mình (điều đó không có nghĩa là ở bạn mọi sự đều suôn sẻ và không bao giờ có va chạm hay bất đồng, nhưng cuộc sống của bạn với người thân không được trở thành một cuộc va chạm triền miên) thì hãy bước lên cấp độ tiếp theo và hãy trưởng thành hơn nữa. “Nhà thờ Thánh Isaak” của bạn chính là gia đình, là trường học của bạn. Trước hết, hãy suy nghĩ về những vấn đề chung của gia đình bạn. Chắc đó là thu nhập gia đình. Hãy cố tìm hiểu thu nhập gia đình lấy từ đâu, làm thế nào có thể tiết kiệm tiền, cần phải tiêu vào việc gì trước hết – mua vé đến nhà điều dưỡng cho bố bị loét dạ dày hay là mua chiếc xe máy mà đã hai năm trời bạn nài nỉ bố mẹ mua cho. Nếu bạn đã lớn một chút thì vào mùa hè bạn sẽ tìm ra việc gì đó kiếm thêm tiền để mua chiếc xe máy (giày trượt, v.v...) cho mình, còn nếu bạn đã lớn hẳn, khôn ngoan hẳn thì bạn sẽ dành tiền không phải để mua chiếc xe máy dễ gây ra tai nạn và mang tật vào thân, mà là mua chiếc vé đến nhà điều dưỡng cho bố (hay nộp tiền cho em gái đi học trường nhạc, làm hàng rào mới cho căn nhà nhỏ của bà nội ở nông thôn...). Ở trường học cũng có những vấn đề riêng của nó. Hãy đặt địa vị bạn là hiệu trưởng thì bạn sẽ giải quyết chúng như thế nào? Để chuẩn bị cho năm học mới, làm thế nào sửa chữa những lớp học bị chính bọn học sinh các bạn làm bẩn? Làm thế nào để sửa chữa bàn ghế, làm thế nào trồng cây quanh trường, mua các dụng cụ thể thao hay bổ sung thêm đầu sách cho thư viện? Chắc chắn bạn không giải quyết được các vần đề này, nhưng cần phải nghĩ đến chúng. Lúc đó, chắc là bạn sẽ không còn dám bẻ cây trong vườn trường hay vẽ bậy lên tường nữa. Hãy cố tìm hiểu xem thầy hiệu trưởng giải quyết những vấn đề này như thế nào. Có thế bạn mới bước lên cấp độ tư duy cao hơn, trưởng thành hơn, thông minh và có trách nhiệm hơn. Những người xung quanh bạn sẽ giao tiếp với bạn dễ dàng và thú vị hơn. Bước lên cấp độ thứ hai và thứ ba là bạn đang chuẩn bị cho cuộc sống của người lớn với trách nhiệm không chỉ đối với bản thân, mà còn với những người khác nữa, có nghĩa là trách nhiệm đối với gia đình, bạn bè và người thân. Suy tư về những vấn đề chung của gia đình hay của trường học có nghĩa là bạn đang chuẩn bị đóng một vai trò xã hội nào đó, cho cuộc sống tương lai trong xã hội và công việc của mình. Bạn đạt được cấp độ tư duy càng cao bao nhiêu thì trong tương lai, bạn có thể đạt được địa vị xã hội càng cao bấy nhiêu. Còn việc bạn có hạnh phúc hay không thì cũng tuỳ thuộc vào tính cách của bạn. Những điều vừa nói bạn có thích không? Có ích cho bạn hay không? Nếu có thì bạn hãy tiếp tục rèn luyện mình đi. Nếu không thì bạn tự chuốc lấy sự đau đầu làm gì? Hãy tiếp tục uống bia hay đi nhảy disco, may ra bạn cũng có thể trở nên con người biết điều chăng. Còn tôi thì cho rằng dù đa số chúng ta không trở thành dân biểu, hiệu trưởng hay giám đốc nhà máy, thủ lĩnh các đảng phái, thì khi lên được những cấp độ mới ngày càng cao, ít nhất chúng ta cũng không còn là dân ngu khu đen nữa. Chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được ai và bằng cách nào đang cố làm cho đầu óc chúng ta mê muội. Những sách báo nào đáng đọc và không đáng đọc, người nào đáng tin cậy và người nào không, có thể bỏ phiếu cho ai và người nào thì không. Sau khi đã đạt được cấp độ này thì hãy bước tiếp lên cấp độ sau. Cứ như thế, bạn có thể đạt đến cấp độ nhận thức vũ trụ cơ đấy! Có lẽ khi xem tivi, bạn muốn trở thành dân biểu Duma (hạ viện Nga - ND) hay thủ lĩnh một đảng nào đấy. Khi đó thì dù bạn sống ở đâu chăng nữa - ở thủ đô hay ở một làng bé nhỏ nào, thì hãy nghĩ về những vấn đề khó khăn của nơi đó. Hãy hình dung mình là thị trưởng hay dân biểu, v.v... Có những vấn đề nào về giao thông vận tải, môi trường sinh thái, các vấn đề xã hội... và phải giải quyết chúng như thế nào. Làm thế nào phân phối ngân sách, phải làm những con đường nào ở đâu, phải xây dựng bao nhiêu trường học, v.v... Bạn có cảm thấy là bạn đang bước lên một cấp độ cao hơn không? Hãy đọc báo, hãy nghe những bài phát biểu của các vị đứng đầu thành phố, của các giám đốc nhà máy, của các ông chủ công ty, của người chỉ huy trạm xe và những nhà chức trách khác. Hãy phân tích, so sánh, suy nghĩ và rút ra những kết luận. Nếu bạn xem tivi thì đừng nên mất thì giờ vào những phim bạo lực đầy máu lửa với những tiếng nổ và những trò đánh nhau. Những bộ phim này không đưa lại thông tin nào cả, không phát triển con người. Chúng kích động những bản năng thấp hèn nhất, đưa người xem xuống mức độ ác thú. Chúng sai khiến bạn mà bạn không hề hay biết. Hãy xem những chương trình giúp bạn nhận thức về cuộc sống thực, giúp bạn mở rộng tầm nhìn, nâng bạn lên cấp độ cao hơn. Chẳng hạn, một vị tỉnh trưởng kể về việc ông đã đưa vùng của mình ra khỏi tình trạng trì trệ, tạo công ăn việc làm cho nhiều người, giải quyết được một số vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Ông đã làm được những việc ấy như thế nào? Nếu bạn ở địa vị ông ta thì bạn làm được gì và làm như thế nào? Hãy suy nghĩ và phân tích xem – hay có lẽ ông ta nói dối ở điều này hay điều khác, thổi phồng thành tích? Bạn hãy xem những chương trình nói về việc cải tổ lại quân đội, về các vấn đề y tế, giáo dục, xây dựng, v.v... Hãy phân tích những gì nhìn thấy và nghe thấy, hãy so sánh với thông tin lấy từ các nguồn khác (báo, sách, chuyện kể của những người chứng kiến). Tôi hiểu rằng bạn mới mười sáu tuổi và bạn cũng có những công việc và hứng thú riêng của mình. Bạn còn phải học hành, kết bạn, vui chơi, giải trí. Cố nhiên, bạn không thể biết tất cả những việc trên thế giới, và về mỗi việc đều có ý kiến riêng của mình như một ông già về hưu, ngồi hàng giờ ở sân nhà và bàn chuyện thời sự quốc tế! Hơn nữa, người ta lại cười ông lão này vì cái chuyện chính trị mà ông sôi nổi bàn tán mà thật ra ông chẳng hiểu gì cả. Để không giống như những người hay nói dóc và làm ra vẻ hiểu biết hết mọi chuyện, để không mất thì giờ cho những việc ít liên quan trực tiếp đến bạn, bạn hãy thông minh lên một tý và áp dụng chiến thuật như sau. Hãy chọn từ vô số đề tài hay vấn đề của thế giới một-hai thứ gần gũi nhất với bạn, ví dụ như kiến trúc và xây dựng, tình hình sinh thái ở đại dương, những nghiên cứu trên vũ trụ, nuôi lạc đà hay chim đà điểu, những xa lộ cao tốc, các ban nhạc jazz, ngành xuất bản, cuộc đấu tranh chống SIDA (bệnh liệt kháng – ND), những nghề thủ công và việc phát triển những nghề này, v.v... và v.v... Tất nhiên là bạn biết còn ít về thế giới người lớn, nhưng ở đó bao giờ cũng có những đề tài thú vị đối với bạn, cũng như có những đề tài làm bạn nhàm chán hay ghê tởm, có phải không? Cứ thế, hãy nghiên cứu một-hai đề tài hấp dẫn đối với bạn, chứ không phải đối với cậu Lân hay cô Tâm. Hãy cắt những bài cần thiết trong báo, hãy nghe đài, xem tivi, đọc sách, hãy nói chuyện với người khác, hãy tìm thông tin trên Internet. Dần dần chính bạn và những người xung quanh sẽ nhận thấy rằng bạn biết nhiều đến thế về đề tài quan trọng của người lớn, rằng bạn khôn lên nhiều, rằng thật thú vị khi được tiếp xúc với bạn, rằng bạn là người nói chuyện hay và hiểu biết nhiều. Có thể hỏi ý kiến và coi trọng ý kiến của bạn. Như thế có hay không? Thế thì bây giờ đôi tai vểnh, cái mũi tẹt hay mái tóc thưa của bạn chẳng còn có nghĩa lý gì nữa?

  • * *

Để minh hoạ, bạn có thể vẽ các giai đoạn phát triển của mình bằng sơ đồ gồm những vòng tròn đồng tâm đã nói trên. Trên các vòng tròn đồng tâm phải viết: Vòng trong cùng: TÔI, TÔI, TÔI, TÔI, TÔI, TÔI, người được yêu quý vô cùng; Vòng thứ hai: HỌ – cha mẹ, anh chị em, ông bà, họ hàng, cây cối và thú vật trong nhà, bạn bè, hàng xóm, thầy cô giáo, chúng bạn trong khu phố, v.v.; Vòng thứ ba: – gia đình bạn và các vấn đề của gia đình, trường học của bạn, khu phố, nhóm đóng kịch, thư viện... Vòng thứ tư: – thành phố, làng xóm, quận huyện nơi bạn ở; Vòng thứ năm: – đất nước bạn; Vòng thứ sáu: – thế giới chúng ta, Trái Đất; Vòng thứ bảy: – toàn Vũ trụ (nhận thức vũ trụ).

Bạn hãy tự vẽ sơ đồ những vòng tròn đồng tâm rất đẹp này và treo trên bức tường chỗ bạn ngồi. Bây giờ bạn có thể hàng ngày nhìn nó và ghi nhận rằng hôm nay bạn đã làm gì để nắm vững được cấp độ hiện tại của bạn và chuyển nhanh lên cấp độ sau. Hãy làm một lá cờ bé và gắn nó ở cái vòng mà bạn đang ở đó. Hãy cố gắng, đừng ở lại một vòng quá lâu, và cố tiến nhanh lên phía trước để chuyển ra các vòng ngoài. Nhưng cũng nên biết “nhanh” hay “chậm” là khái niệm tương đối. Đại đa số người sống cả đời cũng không tiến lên nhận thức vũ trụ được. Nghe thật hấp dẫn, nhưng nhận thức vũ trụ đối với bạn và rất nhiều người còn xa xôi lắm, và nói chung, chắc gì bạn sẽ đạt được nó, vì đây là cấp độ của Đức Phật hay Chúa Jesus. Cho nên chớ vội nghĩ về nhận thức vũ trụ, mà hãy kiên trì tu luyện trên cấp độ hiện tại của bạn.

Nói riêng với các bậc cha mẹ, ông bà

Quý vị thân mến! Xin đừng cản trở con cháu quý vị trưởng thành, hãy giúp đỡ chúng! Nếu chúng ở quá lâu, hay thậm chí suốt đời, trong trạng thái trẻ con, là đứa trẻ nhi tính, vô trách nhiệm, không biết tu luyện mình thì thật là khốn khổ cho chúng và cho cả các vị nữa. Khi đó các vị sẽ quở trách chúng, nhưng thật ra các vị phải tự trách mình trước đã! Khi đó các vị chỉ uổng công vô ích hy vọng vào sự thông hiểu lẫn nhau và sự giúp đỡ của chúng. Làm sao có những thứ ấy được, khi các vị không sớm giúp chúng tự rèn luyện những đức tính cần thiết đó? Làm thế nào các vị có thể giúp đỡ chúng được? Trước hết, phải coi chúng là con người và đối xử với chúng tương ứng như với con người, bất kể tuổi tác của chúng. Hãy hỏi ý kiến của chúng trong cuộc họp gia đình về những vấn đề quan trọng nhất, hãy kể cho chúng nghe những khó khăn của mình ở chỗ làm việc hay trong mối quan hệ với những người khác. Nhưng đừng kêu ca phàn nàn về người khác và những tình huống, mà hãy hỏi ý kiến xem làm thế nào có thể khắc phục được khó khăn, giải quyết vấn đề hay chấm dứt va chạm. Khi suy nghĩ về những vấn đề của các vị hay toàn gia đình, về lâu về dài con cháu các vị sẽ giải quyết dễ hơn những vấn đề riêng của chúng, và chúng sẽ học được cách nhận thấy, thông cảm với nỗi đau của người khác, giúp đỡ người khác, trước hết là những người thân của chúng. Những cuộc tiếp xúc như vậy sẽ làm các vị và con cháu gần gũi nhau hơn, hiểu nhau hơn, tạo nên trong gia đình bầu không khí thân mật và đỡ căng thẳng hơn. Như thế đã là quý lắm rồi! Nhưng chỉ có thể nâng cấp độ nhận thức và giác ngộ từ từ, chứ không được vượt qua giai đoạn. Cần phải bắt đầu từ những viêc nhỏ. giả dụ như đứa trẻ không muốn ngồi làm bài tập hoá học. Hãy cố thuyết phục nó bằng các lý lẽ của mình. Nhưng đừng “chở đá” cùng với nó, hãy thử hướng nó đến cấp độ khác – cấp độ “nuôi sống gia đình” hay thậm chí là “xây Nhà thờ Thánh Isaak”. Làm việc đó như thế nào? Hãy cố gắng hấp dẫn nó bằng nhũng lý lẽ khác nhau. Việc ngồi giải bài tập hoá có nghĩa là gì? Có nghĩa là thầy giáo sẽ kiểm tra bài của con trong giờ học và con có thể tránh được điểm hai (điểm thấp nhất – ND) như lần trước, và như thế con sẽ làm cho mẹ vui lòng. Hay là: giải xong bài tập hoá này và sau đó là các bài tập khác nữa, biết đâu con sẽ trở thành học sinh giỏi hoá nhất lớp, được đi thi olympic hoá toàn trường (hay toàn thành phố) và tất cả các bạn trong lớp (hay là cô bé nó thích) ai cũng sẽ phải ngạc nhiên... Có thể đưa ra lý lẽ sau: khi ước mơ trở thành nhà sinh học, con không thể học ở trường đại học về ngành này nếu thiếu những kiến thức về hoá học, v.v... và v.v... Tất cả tuỳ thuộc vào cách nói và sự nhanh trí của các vị. Hay giả sử con gái các vị không muốn may cái váy để nộp cho cô giáo trong giờ học nữ công. Thuyết phục nó bằng cách nào? Nào, con hãy làm cho xong để ngày mai chủ nhật có thể... (hãy nói một điều gì nó thích, nếu không may cái váy xong thì ngày mai chủ nhật sẽ không thể...). Hay là: Nếu con may được cái váy tặng bà nội nhân dịp sinh nhật thì bà sẽ rất vui. Hay: May cái váy đẹp nhất trong lớp, con sẽ làm cho các bạn gái phải ngạc nhiên, thán phục và tất cả đều sẽ làm theo mẫu mã của nó. Hay là: trong cuộc triển lãm toàn trường (hay toàn thành phố), cái váy con may sẽ làm người ta khen ngợi, may ra có thể được giải thưởng. Hay: Trong tương lai, thậm chí con có thể trở thành nhà tạo mẫu nổi tiếng. Hay: Phụ nữ được nam giới yêu mến thì phải biết nấu nướng, biết may vá và đạt được điều gì đó trong cuộc sống, chứ đừng làm đồ bỏ đi, vô tích sự, không có tài cán gì cả thì không một chàng trai nào thèm để mắt đến. Tất cả tuỳ thuộc vào trí tưởng tượng và sự hiểu biết tâm hồn đứa trẻ của các vị - lý lẽ nào của các vị có thể tác động đến tâm hồn của chúng. Và dần dần cứ như vậy đặt cho trẻ những mục đích rất cụ thể, ngày càng phức tạp hơn và gây được hứng thú cho chúng. Chúc quý vị thành công!

Chương 4 TÍNH CÁCH CỦA BẠN. NHỮNG PHẨM CHẤT CÁ NHÂN. NHỮNG ĐIỂM MẠNH VÀ YẾU CỦA BẠN. BIỂU ĐỒ TÂM LÝ CỦA BẠN.

Cũng như mọi người, mọi người, mọi người, Tôi đi, tôi đi, trên Trái Đất này Như mọi người, mọi người, tôi xin số phận Ban phát cho mình hạnh phúc. Đúng, đúng, tôi xin hạnh phúc cho mình. (Lời một bài hát của nữ danh ca Nga Alla Pugacheva)

Bạn có biết tính cách của bạn thế nào không? Có lẽ bạn nghĩ rằng mình là người thông minh nhất, đẹp nhất, có một không hai trên đời, dũng cảm nhất, cao thượng nhất, nhanh trí nhất, kiên định nhât, tốt bụng nhất, chu đáo nhất, chăm chút nhất, ân cần nhất, ... nhất, ... nhất và cứ nhất mãi. Còn cậu Bát ở lớp bên cạnh thì hung dữ nhất, ngu ngốc nhất, chậm hiểu nhất, khó gần nhất, dở hơi nhất, tham lam nhất, nhút nhát nhất, dối trá nhất, đố kỵ nhất, ... nhất, ... nhất và cứ thế cái gì cũng nhất. Nhưng trong cuộc sống hiếm có cái gì chỉ một chiều như thế. Nếu bạn thật nghĩ như vậy thì bạn rất giống con ếch trong chuyện tỉếu lâm dưới đây:

- Ếch ơi, ếch ơi, sao người cô em lại xanh và trơn đến thế? - À, em bị ốm chút ít ấy mà... Nhưng thường thì em có bộ lông trắng trẻo và mịn màng cơ!

Để bạn có thể dễ tìm hiểu tính cách riêng của mình và biết được bạn có thể mong được những gì ở đời này thì trước hết hãy suy nghĩ xem, nói chung, con người có những nét tính cách gì. Có thể ghi chúng ra thành hai cột, bên trái là những tính “tốt”, bên phải là những tính “xấu”. Tuy vậy, thường không phải lúc nào cũng phân biệt được rõ ràng tính cách nào là xấu và tính cách nào là tốt. Hơn nữa, trong những tình huống khác nhau cần đến những tính cách khác nhau, có khi còn trái ngược nhau. Và nhiều người cũng có những ý kiến không đồng nhất về những nét tính cách này hay tính cách khác... Nào, bạn hãy thử làm đi! Tôi nghĩ rằng các mục có thể đại khái như sau:

1. Thông minh, nhanh trí, sáng dạ – ngu ngốc, chậm hiểu.

2. Hiền lành, tốt bụng, ân cần, chu đáo – vô cảm, dửng dưng, thờ ơ.

3. Thiện ý, sẵn sàng chia sẻ – ghen tị, đố kỵ, tham lam, keo kiệt.

4. Nhanh nhẹn, phản ứng nhạy bén – chậm chạp, vụng về.

5. Bình tĩnh, biết tự chế – nóng nảy, không biết tự chế, hay sinh sự.

6. Chân thành, cởi mở – không thích giao tiếp, kín đáo, dối trá.

7. Trung thực, ngay thẳng – ranh mãnh, hiểm độc.

8. Cao thượng – đê tiện.

9. Dũng cảm – nhát gan.

10. Dè dặt, tế nhị, e lệ – càn rỡ, suồng sã.

11. Xởi lởi, ba hoa, cởi mở – ít nói, kín đáo, tẩm ngẩm.

12. Lễ độ, nhã nhặn, dịu dàng – thô lỗ, kệch cỡm.

13. Người bạn đáng tin cậy, trung thành – không đáng tin cậy, phản phúc.

14. Người đàm thoại thú vị – buồn tẻ, nói chán.

15. Hiểu rộng, biết nhiều – tầm thường, rỗng tuếch, thiển cận.

16. Khéo giao tiếp, lịch thiệp, dễ tiếp xúc – bộc trực, quyết đoán, cứng nhắc.

17. Vị tha – ích kỷ.

18. Hiếu hoà, thân mật – hay gây sự, thích đánh nhau.

19. Tốt bụng, hiền lành, từ bi – độc ác, hung dữ, tàn bạo.

20. Chú tâm, biết quan sát – lơ đễnh, thiếu óc quan sát.

21. Tự tin – tự cao tự đại.

22. Tự tin – tự ty.

23. Tự tin – rụt rè, e sợ, khúm núm.

24. Vui vẻ, có óc hài hước, hay đùa, thích khôi hài – buồn tẻ, không có óc hài hước.

25., 26., v.v...

Bạn hãy tuỳ ý bổ sung thêm những tính cách khác vào danh sách trên, nhưng nhớ cố gắng đưa ra không chỉ tính cách nào đó của con người, mà cả tính cách trái ngược nữa. Hãy điền thêm từ vào những hàng đang bỏ trống ở dưới. Và bạn có thấy không, chúng ta đã có cả hàng mấy chục tính cách con người rồi cơ đấy! Tất nhiên, dễ hiểu là cái danh sách trên không mang tính khoa học nào cả, đôi khi nó còn thiếu lôgich, vài nét tính cách trùng lặp và không phải bao giờ đó cũng là những đặc trưng của tính cách, hay có khi không hẳn trái ngược nhau. Nhưng bạn cũng đồng ý với tôi là các từ trên và nhiều từ khác nữa, bạn thường dùng để xác định tính cách của bạn bè cùng lớp, bạn thân hay kẻ thù của mình, mà không hề nghĩ gì đến “tính khoa học” hay “không khoa học” của chúng. Phương pháp này cũng hoàn toàn thích dụng cho việc thực hành này. Thật thú vị, nếu các bạn làm thí nghiệm sau: lập một bảng thể hiện những phẩm chất cá nhân cho mình (một kiểu chân dung tâm lý hay biểu đồ tâm lý riêng), cho bạn bè, người quen hay kẻ thù của mình. Làm thế nào đây? Tất nhiên, lấy cả vài chục tính cách thì nhiều quá, cho nên ta chỉ chọn ra mười nét tính cách (và cả những nét trái ngược nữa) quan trọng đối với bạn. Sau đó, lấy một tờ giấy, phía trên liệt kê những tính cách tốt theo hàng ngang. Phía bên trái điền tên của những người được đem ra “thử nghiệm”. Để cho dễ nhìn, phải kẻ theo hàng ngang và hàng dọc. Sau đó trên cũng tờ giấy này, ta lại liệt kê thành hàng ngang những tính cách xấu, và tương ứng theo chiều dọc cũng viết những tên người như trên. Sau đó, hãy đánh dấu cộng ở những phẩm chất này và phẩm chất khác trái ngược bằng các bút dạ màu khác nhau, ví dụ như các tính tốt thì viết màu đỏ, các tính xấu thì viết màu xanh chẳng hạn. Đại thể như sau:

hiền lành thông minh vui vẻ, hài hước chú tâm cậu Tùng + + cô Hạnh + + cô Tuyết + +


hung dữ ngu dốt thiếu óc hài hước đãng trí cậu Tùng + + cô Hạnh + + cô Tuyết + +


Bạn có thấy không, chỉ trong bốn nét tính cách mà Tùng, Hạnh và Tuyết đã khác nhau rồi. Và họ còn khác nhau nữa, nếu so sánh mười hay hai chục nét tính cách. Có lẽ trên thế giới này, không có những người hoàn toàn giống nhau về tính cách. Còn nếu hiện tại, bạn cảm thấy rằng trong số bạn bè, người quen hay họ hàng của bạn có những người giống nhau về tính cách, thì chỉ vì một trong hai lý do: hoặc bạn biết về người ta chưa đủ, tức là bạn là nhà tâm lý tồi; hoặc đó là những người còn ít tuổi, và họ chưa hình thành hẳn nhân cách, cho nên sở thích và tính cách của họ vẫn có nhiều nét tương đồng hơn là dị biệt.

Có thể làm biểu đồ tâm lý phức tạp hơn, làm cho nó thú vị và chính xác hơn. Muốn thế thì phải thay dấu cộng bằng điểm số, chẳng hạn dùng thang điểm năm cho từng mức độ biểu hiện của mỗi nét tính cách. Nếu một tính cách nào đó của con người biểu hiện kém thì cho điểm một. Nếu mạnh hơn một chút cho điểm hai, ở mức độ trung bình thì cho điểm ba, nếu mạnh cho điểm bốn và nếu rất mạnh cho điểm năm. Lúc đó biểu đồ tâm lý kiểu trên sẽ như sau:

hiền lành thông minh vui vẻ, hài hước chú tâm cậu Tùng 4 2 cô Hạnh 3 5 cô Tuyết 1 4

Nếu bạn thích lập một biểu đồ tâm lý cụ thể hơn thì hãy viết ra mười lăm, hai mươi hay nhiều nét tính cách hơn nữa. Tất nhiên, khi đó dùng một tờ giấy không đủ để liệt kê hết tất cả những nét tính cách tốt và xấu được, phải dùng đến hai - ba tờ. Nhờ đó, sau khi làm xong bạn sẽ có một chân dung rất cụ thể và rõ nét hơn. Bạn liệt kê càng nhiều nét tính cách thì càng ít khả năng có sự trùng lặp về chân dung tâm lý của người này với người nọ. Nếu như chúng trùng lặp, hơn nữa trùng lặp nhiều lần thì nguyên nhân có thể là: hoặc bạn phân tích quá ít nét tính cách, hoặc thường là bạn biết quá kém về những người xung quanh và chưa có thói quen phân tích những đặc điểm tính cách của họ. Thật thú vị khi nhìn lại những tờ giấy này hai, ba, bốn chục năm sau. Nhất là khi bạn dán ảnh của người đó thay cho tên hay bên cạnh tên. Rất có thể là những người có tính cách gần giống nhau sẽ có cuộc sống cũng gần giống nhau. Hãy thử xem, may ra bạn có thể quan sát được điều này. Mà cũng có thể bạn sẽ hình dung được trên những nét chung nhất và tiên đoán được số phận của những người có loại tính cách nhất định! Hàng chục năm sau, họ sẽ ngạc nhiên vì trước đây có lần bạn đã đưa ra những dự đoán khá đúng (tất nhiên, nếu các bạn không mất liên lạc với nhau sau khi tốt nghiệp phổ thông và khi những người này còn nhớ lại những lời dự đoán của bạn). Tôi cảm thấy là khi đọc xong cuốn sách này, trong chừng mực nào đó bạn sẽ học được cách nhìn thấy trước số phận của mình, của người khác, hay ít ra cũng hình dung được (theo thuyết xác suất) điều gì trong tương lai đang chờ đợi một người hiền lành hay hung dữ, thông minh hay ngu dốt, ranh mãnh hay chất phác, một anh chàng vô tư hay một người bạn suốt ngày chỉ biết lo lắng với khuôn mặt rầu rĩ. Tôi tin chắc là đa số người, thậm chí không chỉ thiếu niên mà cả người lớn nữa, đặt những phẩm chất như “thông minh – ngu dốt” lên hàng đầu hay một trong những vị trí hàng đầu. Bản thân tôi khó nói được thế nào là thông minh, thế nào là ngu dốt. Đánh giá trí thông minh có thể từ nhiều quan điểm khác nhau, và những người khác nhau thường có những ý kiến rất khác nhau về vấn đề này. Vì thế, chúng ta sẽ nói sau cụ thể hơn về khái niệm “thông minh – ngu dốt”. Dù sao bạn cũng nên nhớ danh ngôn này: “Mỗi người đều có quyền làm một người ngu. Không thể chống lại việc này được, nhưng phẩm chất này chỉ được sử dụng trong một mức độ nhất định mà thôi” - Robert Berens (1759 – 1796), nhà thơ Scotland.


  • * *

Có một loạt các bài test (thử nghiệm – ND) cho những nét tính cách khác nhau của con người. Tôi nghĩ rằng không cần những bài test này bạn cũng có thể đánh giá được những nét tính cách khác nhau của bạn bè hay người thân của bạn. Hơn nữa các bài test này không phải là hoàn hảo, các nhà tâm lý học đã tranh cãi về chúng rất nhiều. Có thể bạn đã thấy các bài test này ở đâu đó và bạn có cảm giác hình như chúng khá phức tạp và do trí tưởng tượng mà ra, nhưng dù sao tôi cũng đưa ra một hai bài test kiểu như vậy. Nếu bạn thích thì hãy thử làm xem.

Test về sự băn khoăn – lo lắng


1.................... 11................... 21................... 31................... 41.................. 2.................... 12................... 22................... 32................... 42.................. 3.................... 13................... 23................... 33................... 43.................. 4.................... 14................... 24................... 34................... 44.................. 5.................... 15................... 25................... 35................... 45.................. 6.................... 16................... 26................... 36................... 46.................. 7.................... 17................... 27................... 37................... 47.................. 8.................... 18................... 28.................... 38................... 48.................. 9.................... 19................... 29.................... 39................... 49.................. 10.................. 20................... 30.................... 40................... 50..................


Tổng số “đồng ý”............... Tổng số “không biết” ............. Tổng số “không đồng ý” (từ số 1 đến 37) (từ số 1 đến 50) (từ số 38 đến 50)


Tổng số (sau khi làm xong tổng kê): .......................................


Câu hỏi cho bài test:

1.Tôi thường làm việc rất căng thẳng. 2. Đêm tôi rất khó bắt đầu giấc ngủ. 3. Trong hoàn cảnh quen thuộc, tôi không thích những thay đổi bất ngờ. 4. Tôi thường thấy những giấc mơ khủng khiếp. 5. Tôi khó tập trung vào một việc gì đó. 6. Giấc ngủ của tôi thường không yên và hay bị ngắt quãng. 7. Tôi muốn được hạnh phúc, giống những người khác như tôi nghĩ. 8. Hoàn toàn đúng là tôi thiếu tự tin vào mình. 9. Sức khỏe của tôi làm tôi rất lo. 10. Có những lúc tôi cảm thấy mình hoàn toàn vô dụng và vô tích sự. 11. Tôi hay khóc, đôi mắt tôi thường đẫm lệ. 12. Tôi run tay khi bắt đầu làm một việc gì khó khăn hay nguy hiểm. 13. Đôi khi tôi bị bối rối, người toát mồ hôi, vì thế tôi thấy ngượng. 14. Có cái gì đó thường làm tôi lo lắng. 15. Tôi không thích tình huống không rõ kết cục ra sao. 16. Tôi toát mồ hôi ngay cả trong những ngày lạnh. 17. Có những lúc tôi lo lắng đến nỗi không ngồi yên được một chỗ. 18. Cuộc sống của tôi gần như luôn luôn căng thẳng cao độ. 19. Tôi nhạy cảm hơn nhiều người khác. 20. Tôi dễ bị luống cuống. 21. Tình cảnh của tôi giữa những người xung quanh làm tôi lo lắng. 22. Trong hai tình huống “thành công” và “thất bại”, tôi thường tiên đoán mình sẽ thất bại. 23. Không có tin tức đầy đủ về việc sắp xảy ra, tôi thường không dám quyết định về vấn đề ấy. 24. Có những lúc tôi bị kích động đến nỗi khó ngủ. 25. Có lúc tôi cảm thấy sợ hãi trong khi thật ra chẳng có gì đe dọa tôi cả. 26. Tôi coi mọi cái đều quá quan trọng. 27. Đôi khi cảm thấy tôi không thể vượt qua được những khó khăn trước mắt tôi. 28. Có lúc tôi thấy mình chẳng thích dụng cho việc gì cả. 29. Sau khi tiếp xúc với ai, tôi thường nhớ và phân tích lại những câu nói của tôi. 30. Tôi rất lo lắng cho những thất bại có thể xảy ra. 31. Chờ đợi bao giờ cũng làm tôi bồn chồn. 32. Trong tình trạng bị kích động, tôi thường hay quên điều định nói. 33. Đôi khi tôi hay buồn phiền vì những chuyện không đâu. 34. Tôi là người dễ bị kích động. 35. Tôi thường sợ đỏ mặt. 36. Tôi không đủ sức chịu đựng tất cả những khó khăn sắp tới. 37. Đôi khi cảm thấy hình như thần kinh của tôi rối loạn và tôi sắp gục. 38. Thường thường chân tay tôi khá ấm. 39. Tôi thường có tâm trạng tốt và ổn định. 40. Hầu như bao giờ tôi cũng cảm thấy mình khá hạnh phúc. 41. Tôi vẫn giữ được bình tĩnh khi phải chờ đợi lâu. 42. Sau những lần buồn phiền, tôi ít khi bị đau đầu. 43. Trước những khó khăn, tôi ít khi bị trống ngực đập. 44. Thần kinh tôi không rối loạn hơn so với người khác. 45. Tôi tự tin vào mình. 46. So với bạn bè, tôi cho mình là người khá dũng cảm. 47. Tôi không rụt rè hơn những người khác. 48. Tôi thường bình tĩnh, và khó mà làm tôi mất bình tĩnh. 49. Hầu như tôi không bao giờ bị đỏ mặt cả. 50. Sau bất kỳ những điều khó chịu nào tôi vẫn có thể ngủ yên.

Làm việc với bài test

Với mỗi câu trên có thể đưa ra ba cách trả lời – “đồng ý”, “không đồng ý” hay “không biết”. Hãy viết câu trả lời của bạn vào bảng gồm 50 câu trên và tính số điểm có được. Lúc đầu, hãy tính số lượng câu trả lời “đồng ý” từ câu 1 đến câu 37. Hãy nhớ lấy con số thu được. Tiếp theo, tính số lượng các câu “không đồng ý” từ câu 38 đến câu 50. Hai con số có được bạn hãy ghi nhớ, tốt hơn hết viết ra giấy hay viết ngay trên bảng test cũng được. Hãy đếm số câu trả lời “không biết” cho tất cả các câu từ 1 đến 50. Lúc đó bạn sẽ có được con số thứ ba. Mỗi con trong ba con số ấy chia cho hai, và cộng cả ba kết quả đạt được. Kết quả cuối cùng bạn hãy so sánh với thước đo dự đoán tâm lý dưới đây. Hãy nhớ rằng bạn làm bài test trên là cho bản thân mình, vì bạn muốn hiểu rõ mình hơn và muốn biết kết quả khách quan. Cho nên đừng tìm cách gây ấn tượng tốt (cho ai kia cơ chứ?), đừng tự lừa dối mình, hãy trả lời nhanh chóng và thật thà. Không có câu trả lời “tốt” hay “xấu” - chỉ có những người khác nhau mà thôi!

Kết quả dự đoán tâm lý


Mức độ lo lắng – băn khoăn


thấp dưới trung bình trung bình trên trung bình cao nam 0 - 9 10 - 14 15 - 19 20 - 24 trên 24,5 nữ 0 - 15 16 - 19 20 - 24 25 - 29 trên 29,5

Đối với những người trẻ tuổi (và những người không còn trẻ cũng vậy) một tính cách rất quan trọng là thích giao tiếp. Phần lớn sự thành công, may mắn và thậm chí cả hạnh phúc của con người đều tuỳ thuộc vào tài giao tiếp này. Cho nên bài test kế tiếp là để xác định bạn có thích giao tiếp không.

Bài test về thích giao tiếp


1 ............................ 20 ........................... 3 ............................ 2 ............................ 21 ........................... 4 ............................ 7 ............................ 22 ........................... 5 ............................ 8 ............................ 23 ........................... 6 ............................ 11 .......................... 24 ........................... 9 ............................ 12 .......................... 26 ........................... 10 .......................... 13 .......................... 28 ........................... 15 .......................... 14 .......................... 30 ........................... 16 ......................... 17 .......................... 31 ........................... 25 ......................... 18 .......................... 32 ........................... 27 ......................... 19 .......................... 33 ........................... 29 .........................


Tổng số câu trả lời “đồng ý” trong hai cột bên trái ................. Tổng số “không đồng ý” trong cột bên phải ................


Tổng số câu trả lời “đồng ý” và “không đồng ý” ................................

Câu hỏi cho bài test:

1. Tôi thích tham gia vào các buổi hội hè. 2. Tôi không thể kìm chế những ý muốn của mình, thậm chí cả trong trường hợp chúng ngược lại ý muốn của bạn bè tôi. 3. Tôi thích tỏ ra cho ai đó biết thiện cảm của mình. 4. Đối với tôi, việc gây được ảnh hưởng quan trọng hơn là kiếm được bạn. 5. Trong quan hệ với bạn bè, tôi có nhiều quyền hạn hơn là trách nhiệm. 6. Chẳng hiểu vì sao tôi thấy kém vui khi biết về một thành tích nào đó của bạn mình. 7. Tôi cảm thấy thoả mãn khi được giúp ai làm cái gì đó. 8. Ở giữa đám bạn bè, tôi không còn phải bận tâm điều gì nữa. 9. Tôi đã chán ngấy bạn bè tôi. 10. Khi tôi làm việc gì quan trọng, sự có mặt của người khác làm tôi khó chịu. 11. Khi bị dồn vào thế bí, tôi chỉ nói cái phần sự thật mà theo ý tôi không làm hại cho bạn bè và người quen của tôi. 12. Trong tình huống khó khăn, tôi nghĩ về mình thì ít, mà nghĩ về người thân của tôi nhiều hơn. 13. Những điều phiền lòng của bạn bè và người thân làm tôi đồng cảm đến mức có thể bị ốm. 14. Tôi sẵn lòng giúp đỡ người khác, dù điều đó có thể gây cho tôi những khó khăn đáng kể. 15. Vì nể bạn, tôi có thể đồng ý với anh ta, dù trong thâm tâm, tôi cho là ý kiến anh ta sai. 16. Tôi thích những chuyện phiêu lưu hơn là những chuyện về tình yêu. 17. Cảnh bạo lực trong phim làm tôi kinh tởm. 18. Khác với lúc đông người, khi một mình tôi cảm thấy lo lắng và căng thẳng hơn. 19. Tôi cho rằng trong cuộc đời, niềm vui chính là giao tiếp. 20. Tôi rất thương những con chó và con mèo vô chủ. 21. Tôi thích có ít bạn nhưng toàn là bạn thân. 22. Tôi thích ở chỗ đông người. 23. Sau khi cãi vã với người thân, tôi thường cảm thấy buồn phiền rất lâu. 24. Tôi có nhiều bạn thân hơn nhiều người khác. 25. Tôi thường cố đạt được thành tích hơn là được tình bạn. 26. Tôi tin vào linh cảm và trí tưởng tượng của mình khi đánh giá về con người, hơn là ý kiến của bạn bè. 27. Tôi cho rằng phúc lợi vật chất quan trọng hơn là niềm vui được giao tiếp với những người thú vị. 28. Tôi thương những người không có bạn thân. 29. Người ta thường hay vô ơn đối với tôi. 30. Tôi thích những câu chuyện về tình bạn không vụ lợi. 31. Vì bạn bè, tôi có thể hy sinh những quyền lợi của mình. 32. Thời nhỏ, tôi chơi với nhóm bạn thân mà không bao giờ bỏ nhau. 33. Nếu tôi là nhà báo thì tôi sẵn sàng viết về sức mạnh của tình bạn.

Kết quả dự đoán tâm lý


Mức độ thích giao tiếp

thấp dưới trung bình trung bình trên trung bình cao nam 0 - 21 22 – 23 24 - 25 26 – 28 hơn 29 nữ 1 – 23 24 – 26 27 – 28 29 – 30 hơn 31

Tôi muốn nói thêm, thay vì dùng những bài test dài dòng và khá phức tạp cũng có thể dùng linh cảm của mình để xác định tính cách con người. Nhờ vậy, sẽ biết được bạn có khả năng đó hay không, và bạn là “nhà tâm lý bẩm sinh” ở mức độ nào. Để biết điều đó thì bạn hãy làm một thử nghiệm sau. Hãy đề nghị bạn mình đem đến vài tấm ảnh bạn bè hay bà con (với khuôn mặt to) mà bạn không biết hay chưa từng nghe nói đến. Hãy nêu lên bốn –năm tính cách chính của người trong ảnh và sau đó so sánh với những điều mà anh bạn nói. Người này phải biết rõ về người trong ảnh. Nếu những điều chính bạn nói đúng và gần như không sai thì tôi xin chúc mừng - bạn là “nhà tâm lý bẩm sinh” thật sự rồi! Làm việc với ảnh của những người hoàn toàn không quen biết là điều rất thú vị. Đây có thể là những nhà chính trị nổi tiếng, những nhà tạo mốt, những nhà kinh doanh, những nghệ sĩ hay những nhà khoa học, v.v... Khi đọc báo hay xem sách, bạn hãy chú ý đến ảnh phóng to của những người khác nhau. Bạn nghĩ thế nào, những người này thông minh hay ngu dốt, hiền lành hay hung dữ, lạc quan hay bi quan, ranh mãnh hay chất phác? Đôi khi bạn có thể so sánh những điều quan sát của mình với thông tin viết trên đó (nếu có trong sách báo), nhưng nên nhớ rằng các nhà báo hay nói láo hoặc tô hồng, bốc thơm những nhân vật của mình. Không nhất thiết phải miêu tả bằng tất cả những nét tính cách kể trên mà chỉ cần nêu lên những tính cách đập vào mắt bạn trước hết, và như thế là đủ lắm rồi.

Chương 5 DỰ ĐOÁN HẠNH PHÚC. CÁC KIỂU HẠNH PHÚC. HẠNH PHÚC NÀO TỐT HƠN, “KIỂU CỦA MÌNH” HAY “KIỂU CỦA NGƯỜI KHÁC”?

Trên thế giới này không có hạnh phúc, chỉ có bình yên và ý chí. - A.S. Pushkin (1799-1837), thi hào Nga

Như thế, bạn đã lập được biểu đồ tâm lý cho mình. Nhưng tôi vẫn nghi ngờ rằng nó chưa thật đúng với tính cách của bạn. Làm thế nào để kiểm tra điều đó? Thứ nhất, hãy nhờ người thân hay bạn bè cũng lập biểu đồ tâm lý cho bạn. Nếu nét tính cách nào đó có trong tất cả các biểu đồ tâm lý (hay ít nhất là trong phần lớn các biểu đồ) thì chắc là bạn thực sự có nét ấy. Còn nếu bạn chỉ có một biểu đồ tâm lý do bạn lập nên thôi thì vẫn có thể kiểm tra những nét chính bằng cách sau. Ví dụ như, bạn viết là: “tốt bụng, sẵn sàng giúp đỡ người khác”. Thì hãy nhớ thử xem tuần vừa qua bạn đã giúp đỡ bao nhiêu người. Một lần đưa người mù qua đường, hai lần cho tiền người ăn mày, hai lần giúp em gái làm bài tập, ba lần đi mua bánh mì cho bà nội, một lần ngồi trông trẻ cho bà hàng xóm khi nhà bà có chuyện bất hạnh, hai lần tưới cây trong lớp, những cây héo do thiếu nước vì không có ai để ý tới... Thôi, thế là đủ, đủ rồi! Nếu đúng như vậy thì bạn thật là người rất tốt bụng và sẵn sàng giúp đỡ người khác. Nếu bạn chỉ làm một hai hành động tốt, thế thì cũng được, nhưng mà ít. Bạn chưa phải là tốt lắm đâu. Bạn cũng thường thôi, trung bình thôi. Nếu bạn không nêu ra việc gì hết thì làm sao có thể coi bạn là người tốt bụng và hay giúp đỡ người khác được. Cái tốt của bạn là do bạn tự tưởng tượng ra mà thôi. Nếu bạn viết là: “dũng cảm”. Thế thì trong tuần qua, cái dũng cảm của bạn thể hiện ra như thế nào? Nếu bạn đánh đứa bé thì bạn không phải là dũng cảm, bạn là thằng hèn nhát. Nếu bạn một mình xông vào mấy thằng địch thủ (trong lúc có thể chạy thoát thân mà không có hại cho ai hết) thì bạn cũng không phải là dũng cảm mà chỉ là ngốc thôi. Nếu bạn nói thật với người bạn của mình một sự thật không lấy gì làm dễ chịu thì bạn mới là người dũng cảm và chân thành. Nếu đêm tối bạn đưa cô gái về nhà cô, mặc dù chính bạn cũng sợ ở nơi xa lạ này, thế thì bạn thật dũng cảm. Dũng cảm không phải là người không bao giờ biết sợ gì mà là người biết vượt qua nỗi sợ (khi thật sự cần thiết), không liều mình một cách vô ích mà biết liều mình khi thật sự cần thiết. Có lẽ bạn cho rằng bạn thông minh? Điểm này là khó nhất. Con người ta không thể thông minh trong tất cả mọi chuyện được. Có người thông minh trong toán, nhưng lại dốt về văn. Và ngược lại. Có người rất thông minh trong việc đánh cờ, nhưng lại thường học kém môn sử. Hơn nữa, có người thông minh trong khoa học, nhưng lại hoàn toàn khờ khạo trong cuộc sống. Và ngược lại. Có người khờ khạo cả trong cuộc sống, cả trong khoa học, nhưng lại là bậc kỳ tài trong việc giải quyết những vấn đề về kỹ thuật cụ thể, chẳng hạn, chữa ô tô, làm đồ thủ công, trồng hoa, thêu cườm, hoà giải các vụ va chạm, nấu món ăn dân tộc, tạo mốt quần áo, tạo kiểu tóc, và nói chung trong bất cứ lĩnh vực nào khác. Tự đánh giá mình về điểm này rất khó, khi còn trẻ có lẽ không thể làm được điều này. Và có thể đánh giá theo những quan điểm khác nhau. Tôi nghĩ rằng, người thông minh trước hết phải học giỏi, thứ hai, phải biết chan hoà với mọi người, có quan hệ tốt với nhiều người xung quanh và ít khi va chạm, xung đột. Người như thế không phải chỉ thông mình mà còn rất thông minh, thậm chí còn là sáng suốt nữa. Không phải ngẫu nhiên người ta nói: “Bọn ngu chỉ biết đánh nhau, còn những người khôn thì biết thoả thuận nhau”. Hơn nữa, nếu người đó hiểu thấu đáo một đề tài quan trọng nào đó, lại biết làm việc giỏi bằng đầu óc hay chân tay (nếu bằng cả đầu óc lẫn chân tay thì càng tốt), đọc nhiều, biết cách tiếp xúc, chuyện trò với những người chưa quen biết nhiều, thì anh ta là con người toàn diện, tài năng và gần như là thiên tài. Còn bạn cho những người nào là thông minh? Hãy xác định và liệt kê ra những nét tính cách của người thông minh. Hay nói một cách khác: nếu bạn cho cô bé Tuyết Mai là thông minh thì hãy giải thích tại sao. Hay cho cậu Tuấn Anh là thông minh thì cũng giải thích tại sao đi. Hay cho bà Thanh Xuân là người phụ nữ thông minh thì cũng phải giải thích tại sao? Tôi tin chắc rằng trí tuệ của mỗi người nói trên đã được bạn đánh giá theo những tiêu chuẩn khác nhau. Cô bé Tuyết Mai thông minh vì cô ấy là học sinh giỏi. Cậu Tuấn Anh thông minh vì biết nhiều về computer hơn hẳn các bạn khác, tất cả các bạn phải tìm đến cậu để hỏi đủ thứ về máy vi tính. Còn bà Thanh Xuân thông minh vì bà đọc nhiều biết rộng, tất cả những bà láng giềng đều đến nhà bà ấy để hỏi han ý kiến về các vấn đề cuộc sống, hoặc để hoà giải các vụ va chạm trong gia đình. Có nghĩa là bà không chỉ thông minh mà còn sáng suốt nữa kia đấy. Tất nhiên, trước hết bạn muốn biết về chính bản thân chứ không phải về ai khác - mình có thông minh hay không. Để làm điều này có ba cách: 1) Hỏi bạn bè và người thân của bạn. Hơn nữa, phải làm thế nào để họ trả lời bạn không chỉ trung thực mà còn cụ thể nữa: tại sao họ lại xem bạn là thông minh hay ngu ngốc? Phải làm sao để họ trả lời bạn một cách có căn cứ và xác thực. Nếu bạn không tiện hỏi thẳng họ hay không tin tưởng vào sự chân thành của họ thì có thể đi con đường vòng. 2) Hãy hỏi họ: người có những phẩm chất nào mà họ coi là thông minh? Hãy xem thử bạn có được những phẩm chất đó hay không. Khi đó bạn sẽ hiểu được họ coi bạn là người thế nào – thông minh, ngu ngốc hay bình thường. 3) Dù sao cũng thử tự đánh giá mình xem. Hãy suy nghĩ: bạn học hành như thế nào (giỏi, kém, trung bình), bạn có sở trường nào không - bạn làm giỏi nhất việc gì (đục giũa gỗ làm mỹ nghệ phẩm, trồng phong lan, thuyết trình, chơi violon, v.v...), hay bạn am hiểu sâu đề tài gì giỏi hơn tất cả các bạn khác (đồ sứ Trung Quốc, thuật trang trí vải batik của Indonesia, các thế cờ vua, các vấn đề về y học hay tâm lý học, cách dạy chó công vụ, sửa chữa ô tô, v.v... và v.v...). Có một loạt bài test đánh giá trí tuệ của con người, nhưng dù sao chăng nữa trí tuệ và sự “thông minh – ngu ngốc” không phải hoàn toàn là một. Có nhiều định nghĩa khác nhau - thế nào là một người thông minh: thông minh ở lĩnh vực nào (trong khoa học, trong cuộc sống, trong mối quan hệ người với người)? Nhưng đối với mục đích của chúng ta là đi tìm hạnh phúc, thì theo tôi, cái định nghĩa đúng nhất là: người thông minh là người biết tạo dựng hạnh phúc, tức là người thông minh là người hạnh phúc. Như vậy, lời đề từ ở đầu cuốn sách quả là đúng lắm: “Bạn muốn hạnh phúc ư? Hãy hạnh phúc đi!”. Để minh hoạ, tôi đưa ra một vài danh ngôn có thể bổ ích cho bạn:

“Phần đông người có hạnh phúc đến mức nào là do họ quyết định mức đó cho họ”. - Abraham Lincoln (1809 – 1865), tổng thống Mỹ.

“Hạnh phúc hay bất hạnh của con người phần nhiều là do chính tay họ làm ra”. - John Locke (1632 – 1704), nhà triết học Anh.

“Hạnh phúc là kết quả của số phận, trí tuệ và tính cách”. - Nikolai Karamzin (1766 – 1826). nhà văn và sử gia Nga.

Ngoài ra, còn có một danh ngôn nữa của một tác giả nào đó không rõ tên, tuy không phải hoàn toàn về hạnh phúc, nhưng rất đáng cho ta ngẫm nghĩ: “Loài người cầu xin Trời ban cho họ tiền bạc, sức khỏe, danh vọng, của cải, nhưng không hiểu vì lý do gì không ai và không bao giờ cầu xin cho họ thêm trí tuệ”.

  • * *

Bạn có biết rằng mười tính cách bạn chọn cho biểu đồ tâm lý của mình hay của người khác cũng là biểu hiện tính cách của bạn đấy?! Rất có thể là chính những tính cách đó nổi bật trong bạn, hay ngược lại, bạn đang đau khổ vì thiếu chúng. Thường thường bạn viết “thông minh” trong trường hợp người ta hay nói với bạn: “Cậu thông minh thế, cậu thông minh nhất!”; hay “Sao mày ngu đến thế, chẳng biết cóc khô gì cả, khi nào thì mày mới khôn ra một tý tẹo, hả?”. Bạn viết: “ranh mãnh”, khi mọi người đều cho rằng bạn là người ranh mãnh hay bạn rất thiếu cái tính này, bạn hay bị người ta xỏ mũi, bị lợi dụng vào những mục đích vụ lợi, có hại cho bạn và bị gọi là thằng đần, thằng khờ.

– Tại sao Ông Trời tạo nên phụ nữ đẹp như vậy? – Để đàn ông có thể yêu họ. – Thế tại sao Ông lại tạo nên họ ngu như thế? – Để họ có thể yêu đàn ông.

Thế là bạn đã hiểu bạn có những phẩm chất gì rồi. Từ đó có thể kết luận được điều gì? Từ đó có thể kết luận rằng với những phẩm chất ấy có thể dự đoán một cách tương đối chính xác về cuộc sống tương lai của bạn. Tất nhiên, phải biết tính đến những chuyện ngẫu nhiên và những hoàn cảnh có thể xảy ra. Nhưng dù sao dự đoán phần lớn là trúng. Ý kiến phổ biến, nhất là trong giới trẻ, họ cho rằng cuộc sống là một trò xổ số, và tương lai chúng ta không thể nào dự đoán trước được, ý kiến đó hoàn toàn sai. Trái lại, tương lai tuỳ thuộc rất nhiều vào những phẩm chất cá nhân và những nỗ lực riêng của bản thân bạn. Tất cả chúng ta sinh ra không phải để hưởng cái hạnh phúc ngẫu nhiên rơi vào chúng ta, chỉ vì chúng ta trở thành người lớn. Hạnh phúc tuỳ thuộc vào chính chúng ta. Để làm nên (đúng với nghĩa của từ này) hạnh phúc, cần phải biết phân tích và tiếp cận với đầu óc tỉnh táo những kiến thức cần thiết. Còn nếu sống mà cứ bỏ mặc cho Ông Trời, không có một chút nỗ lực nào, như cái cây cái cỏ ven đường, thì cái hạnh phúc (cho dù nó có đến đi chăng nữa) chỉ là thứ hạnh phúc cây cỏ hay hạnh phúc của con thỏ mà thôi. Không phải ai cũng muốn hưởng thứ hạnh phúc như thế. Nếu thứ hạnh phúc cây cỏ này không hợp với bạn, thì bạn hãy đọc tiếp đi và hãy bắt tay ngay vào việc, vì nếu bạn bắt tay vào việc càng sớm thì kết quả sẽ càng cao.

Nói với các bậc cha mẹ, ông bà

Quý vị thân mến! Khi trong gia đình các vị có trẻ con, các vị thường hay không hài lòng về những hành động hay tính cách của nó. Lúc đó, các vị không nên nói với nó rằng: ‘Con ngốc thế!”, “Con thật tham lam, láo xược, ác độc thế...” và những câu tương tự như vậy. Dùng những lời như thế, chính các vị đã gài đặt cho chúng chương trình mang những tính cách mà các vị muốn nó bỏ đi đấy! Nói như sau mới đúng: “Mẹ (cha, ông, bà) rất không hài lòng (Mẹ buồn vì con làm mẹ thất vọng), bởi vì con (cháu) đã làm việc này, nếu con (cháu) làm ngược lại thì ai cũng nói (nhận thấy, hiểu, vui mừng, ngạc nhiên) rằng con là người tốt bụng, rộng lòng, có giáo dục”. Đừng nên gài đặt vào tiềm thức trẻ những nét tính cách không tốt của nó, hãy để cho nó gắn mình với những phẩm chất tốt đáng mong muốn, cho dù hiện nay trẻ chưa có được những phẩm chất ấy! Số phận con người phần lớn do tính cách của người đó quyết định. Khi trẻ mới lớn vẫn chưa hình thành về mặt tính cách, nên chưa chắc nó đã có tinh thần trách nhiệm bẩm sinh hoặc biết cách cư xử đúng mực trong những hoàn cảnh khác nhau. Các vị là người lớn nên phải biết giúp đỡ trẻ đúng cách và thông minh. Thậm chí các vị có ghét cách cư xử của con cháu thì cũng đừng thất vọng vì đây chính là con cháu các vị, trong người nó có dòng máu, gien của các vị, như thế là khi mắng mỏ hay sỉ nhục nó, các vị phần nào mắng mỏ hay sỉ nhục chính mình và ông cha mình. Hãy nhớ lại xem, khi các vị tuổi bằng nó, và ngay cả bây giờ các vị đã hoàn hảo rồi chăng? Chẳng lẽ các vị không có những va chạm, bậy bạ hay lỗi lầm hay sao? Chẳng lẽ không có ai nói với các vị những lời khó chịu nhất mà các vị sẵn sàng ném vào mặt trẻ lúc nó làm điều gì đó sai hay không vừa ý các vị? Các vị cảm thấy thế nào trong những trường hợp tương tự? Hãy nhớ: con cháu các vị về mặt tinh thần yếu đuối hơn các vị là những người lớn. Đừng có xét nét con cái mà hãy nói với trẻ một cách thân tình, như nói với người lớn, có lý lẽ và có sức thuyết phục. Điều này rất là khó, nhưng các vị hãy kiên trì làm. Chúc quý vị thành công!

  • * *

Có lẽ bạn cũng nhận thấy rằng tôi tránh không nói đến hai đề tài, hai thứ mà hầu như mọi người đều cho là hoàn toàn cần thiết để có hạnh phúc. Những đề tài gì thế? Đó là sức khỏe và tình yêu. Tại sao tôi lại làm như vậy nhỉ? Ít nhất do ba nguyên nhân. Thứ nhất, nếu tôi đề cập đến những đề tài này thì cuốn sách sẽ rất dày, tôi sẽ không bao giờ viết xong và thậm chí chắc gì bạn đã đủ sức đọc hết. Thứ hai, cuốn sách tiếp theo tôi định viết sẽ nói riêng về tình yêu. Thứ ba, sức khỏe không phải là đề tài của tôi, có hàng đống sách chuyên môn về đề tài này. Tuy nhiên ở chương tám cũng nói một ít gì đó về tình yêu. Còn về sức khoẻ, tôi chỉ muốn nói qua vài điều mà thôi. Chính bạn cũng biết, những bợm rượu, người nghiện thuốc lá hay ma túy (bản thân họ hoàn toàn tự nguyện) giảm tuổi thọ của họ rất nhiều. Quan niệm về hạnh phúc của những người nghiện rượu và ma túy khác xa với người bình thường, cho nên cũng không hợp với đa số người mà tôi hy vọng rằng trong đó có cả bạn nữa. Tôi muốn kể chuyện tiếu lâm về một người “hạnh phúc”, nhưng, bạn hãy nghĩ xem, có nhiều người muốn hưởng cái “hạnh phúc” như thế hay không? Cái hạnh phúc ấy hợp với bạn hay là bạn cần một thứ hạnh phúc hoàn toàn khác, thứ hạnh phúc riêng của chính bạn?

Một nhà báo lên miền núi tìm người tuổi thọ cao để phỏng vấn. Anh trông thấy một ông lão gầy gò, còm nhom xách chai rượu đi cùng hai cô gái đẹp. Anh hỏi ông ta: - Thưa cụ, làm thế nào cụ có thể sống được lâu đến thế? Xin cụ cho biết bí quyết của cụ. - Bí quyết sức khỏe của tôi rất đơn giản: sáng uống một chai rượu rồi làm tình, sau đó lại ăn đầy bụng, rồi lại làm tình tiếp. Tối đến, đi ăn thịt nướng và hưởng lạc suốt đêm. - Hay nhỉ! Thế cụ hưởng thọ bao nhiêu tuổi rồi? - Sắp được băm hai tuổi rồi, thế thì sao?

Dù sao cũng nên nói thêm đôi dòng về sức khỏe. Phần lớn sức khỏe là yếu tố bẩm sinh được kế thừa từ cha mẹ. Dù nó có xấu thế nào đi chăng nữa thì bạn cũng phải chịu thôi, và đừng trách cứ bố mẹ, vì điều này hoàn toàn vô ích và tội nghiệp cho bố mẹ. Về phần họ, bố mẹ bạn cũng thừa kế sức khỏe từ ông bà bạn, và cứ thế tiếp tục, ông bà bạn lại kế thừa từ các cụ kỵ... Cho nên cái dây chuyền này kéo từ xưa đến nay, và dù bạn không hài lòng về sức khỏe của mình thì chắc cũng vẫn tiếp tục dây chuyền này đi xa nữa. Điều quan trọng nhất là đừng tự làm hại sức khỏe của mình: hãy dứt bỏ hay tốt nhất là đừng tập cho mình những thói quen xấu, như hút thuốc, uống rượu, xài ma tuý... Đừng chạy theo “mốt” xấu. Vì một khi những thói quen xấu bám được vào bạn, chúng sẽ nhanh chóng biến bạn thành nô lệ cho chúng, và chính bạn sẽ tàn phá sức khoẻ của bạn, hạnh phúc của bạn và của những người thân trong gia đình. Nên nhớ rằng hiện nay, ở các nước văn minh có cái “mốt” tốt: ăn chay, tập thể dục và sống lành mạnh. Cả thanh niên, các chính khách và các nhà hoạt động xã hội đều tự hào về “mốt” mới này. May thay, cái “mốt” này đang ngày càng phổ biến ở nước Nga. “Làm mê muội tâm thần của mình bằng bất cứ thứ gì chưa phải là một tội ác, nhưng nó chuẩn bị cho mình phạm thêm đủ loại tội ác”. - Lev Tolstoi (1828-1910), nhà văn hào Nga. “Cách tốt nhất để kéo dài tuổi thọ là đừng giảm bớt nó” – Paul Bragg, bác sĩ nổi tiếng người Mỹ. Vả lại, chính tôi được biết mấy người tàn tật nặng, nhưng đạt được điều họ mong muốn bằng nỗ lực và ý chí của mình, vượt qua mọi gian khó để tốt nghiệp đại học, tìm được việc làm tốt, lập gia đình đàng hoàng. Họ có tinh thần rất mạnh mẽ và hạnh phúc hơn nhiều người lành lặn và khỏe mạnh. Thế thì bất chấp quan niệm của A. Schopenhauer: “Kẻ ăn mày mạnh khỏe còn hạnh phúc hơn cả ông vua đau ốm”, tại sao những con người tàn tật này vẫn có hạnh phúc? Tất cả là do tính cách vốn có của họ. Họ có những tính cách cho phép họ vượt qua những trở ngại tưởng chừng không thể vượt qua và đạt được hạnh phúc.

Nhân đây, tôi xin kể về một trong những người tàn tật đó - mà tôi biết khá rõ - đang cố vươn lên trong cuộc đời và bắt đầu xây dựng hạnh phúc cho mình. Đó là cậu Nguyễn Hồng Lĩnh, sinh năm 1974 ở Việt Nam. Năm 1980, lúc mới lên sáu, cậu bé gặp một nỗi bất hạnh cực kỳ khủng khiếp: tại Hà Nội, mẹ cậu đèo xe đạp cho cậu đi đến nhà trẻ thì bị ngã trên đường trong lúc chiếc xe điện đang lăn bánh... Xe nghiến nát cả hai tay đến gần nách và chân phải đến gần bẹn. Cuộc đời dành cho cậu một số phận quá bi đát: mất cả hai tay và một chân! Nhờ một duyên may hiếm có, năm 1981 cậu được đưa đến Liên Xô điều trị và làm chân tay giả cho cậu. Bố mẹ cậu xin được sang Tiệp Khắc học và làm ăn để có thể thỉnh thoảng đến thăm con. Nhưng không may, cậu bị đưa từ nơi này đến nơi nọ để chữa trị, rồi cuối cùng bố mẹ hoàn toàn mất liên lạc với con. Người ta đưa cậu vào nhà nuôi dưỡng trẻ tàn tật mồ côi, còn khi cậu đã qua tuổi thiếu niên thì chuyển đến sống lay lắt tại nhà nuôi dưỡng người lớn tàn tật và bệnh hoạn ở một vùng heo hút thuộc tỉnh Moskva. Các bạn thử hình dung tình cảnh này: một cậu bé Việt Nam tật nguyền từ bảy tuổi đã bị vứt vào một môi trường hoàn toàn xa lạ, không bố, không mẹ, không người thân, không biết tiếng Nga, quanh cậu cũng toàn là những đứa bé tật nguyền hay bệnh hoạn, nhiều đứa bi quan, chán đời chẳng thiết học hành gì hết. Còn khi đang tuổi thiếu niên trong trắng ngây thơ thì cậu phải sống từ năm này qua năm khác giữa những người lớn bệnh hoạn, phần nhiều là bệnh tâm thần, bất mãn với số phận mình, cáu kỉnh, cục cằn, lỗ mãng, giữa những ông già, bà già thường gắt gỏng, dở hơi, nói năng điên dại... Đã thế, hồi thập niên 80, đầu thập niên 90 là thời kỳ khủng hoảng trầm trọng ở Liên Xô, tình cảnh thiếu thốn, đói ăn (những người tàn tật sống trong nhà nuôi dưỡng đã nói với tôi: “hàng ngày chỉ được một bữa ăn no, đã lâu không thấy phó-mát, bơ, còn thịt thì lâu lắm rồi không được biết mùi vị”!) càng làm cho những cư dân bất hạnh ở nhà nuôi dưỡng thêm thô bạo, tham lam, hung dữ, những cảnh chửi mắng, tranh giành, cướp giật, ẩu đả nhau thường như cơm bữa. Phải hình dung được cảnh tượng đó mới thấy cái tinh thần, cái ý chí vươn lên của Nguyễn Hồng Lĩnh mạnh mẽ như thế nào giữa cảnh đời khốn khổ. Cố nhiên, cuộc sống trong môi trường như vậy cũng đã để lại dấu ấn “tiêu cực” trên tính cách của cậu: lạnh lùng, ít nói, khó biểu lộ tình cảm, không biết giao tiếp, không biết xã giao, không biết nói chữ “cám ơn”. Điều đó không thể tránh được vì cậu lớn lên mà hoàn toàn thiếu hẳn tình thương của cha mẹ, người thân, hơn nữa có ai dạy cho cậu những điều đó đâu! Dù tật nguyền trầm trọng, dù phải sống trong môi trường như vậy, nhưng cậu bé Hồng Lĩnh từ nhỏ vẫn có chí quyết tâm học tập. Trước tiên là học tiếng, học chữ. Không có hai tay thì cậu dùng miệng viết. Cậu chăm chỉ học tập, và các thầy, các cô giáo đều khen là Hồng Lĩnh siêng năng, chịu khó và thông minh. Cứ miệt mài học năm này qua năm khác, rồi cậu tốt nghiệp trung học phổ thông vào loại giỏi. Nhưng, là một đứa trẻ nước ngoài, theo luật pháp của Liên Xô hồi đó, cậu rất khó được hưởng chế độ trợ cấp xã hội hơn nữa thời hạn cư trú của cậu đã hết từ lâu. Ban quản lý nhà nuôi dưỡng nhiều lần thiết tha yêu cầu Đại sứ quán Việt Nam tìm cách giải quyết, nhưng không được đáp ứng. Cuối cùng, họ phải xin cho Hồng Lĩnh vào quốc tịch Nga. Đây là việc cực kỳ phức tạp đối với một người nước ngoài “không tên tuổi” như Hồng Lĩnh, nên đơn xin đệ trình từ năm 1992 mà mãi đến năm 1998, cậu mới được nhận vào quốc tịch Liên bang Nga. Có quốc tịch rồi, cậu có quyền theo học đại học miễn phí, nên Hồng Lĩnh quyết phấn đấu học lên đại học. Tôi xin nói thêm rằng ngay từ năm 1994, trước khi về nước, anh Lê Quang Chi, một sinh viên Phật tử, đã cho tôi biết là có một cậu bé Việt Nam bị lưu lạc bơ vơ ở Nga, không người thân thích, không biết tiếng Việt, rất cần giúp đỡ. Anh cho tôi địa chỉ, khốn thay, địa chỉ không đúng, đã cũ lâu rồi, nên tôi tìm mãi không thấy. Mấy năm ròng tìm kiếm, chẳng thấy tăm hơi cậu đâu cả. Cuối cùng nhờ một chuyện may mắn có thể gọi là “Trời cho”, tháng 7 năm 1999, tôi đã tìm đến được đúng cái nhà nuôi dưỡng có cậu Hồng Lĩnh ở Zvinhigorod thuộc tỉnh Moskva. Tôi gặp một chàng trai Việt Nam 24-25 tuổi mà loắt choắt cứ như chú bé 14-15 tuổi, trên mặt sớm hằn lên những nét khắc khổ, chịu đựng, chỉ có đôi mắt sáng, đầy nghị lực. Thấy tình cảnh cậu, tôi thương tâm vô cùng, nhưng giọng cậu lại có vẻ vui vui báo tin là cậu đã thi được vào Trường đại học Luật ở Moskva. Nghe tin đó, tôi vừa mừng vừa lo cho cậu. Mừng vì thấy được ở cậu ước mơ thầm kín muốn vươn lên, vượt ra khỏi môi trường hiện nay để sống cuộc đời tự lập. Còn lo là vì thấy cậu chọn cho mình một ngành quá khó, cả khi vào trường lẫn khi tốt nghiệp ra trường. Nhưng tôi đành phải im lặng thôi: cậu đã chọn nghề và đã phấn đấu thi để được tuyển vào trường rồi, tôi không thể làm cậu cụt hứng. Hội Phật giáo Thảo Đường ở Moskva liền bảo trợ cho cậu, anh chị vui vẻ góp tiền, quần áo, thức ăn giúp cậu và giúp cả những ông bà sống trong nhà nuôi dưỡng. Theo lời mời của chúng tôi, trong dịp Đại lễ Vu Lan năm Kỷ Mão (1999), Hồng Lĩnh đã đến Niệm Phật Đường Thảo Đường gặp mặt bà con Việt Nam - đây là lần đầu tiên sau gần 20 năm cậu mới được gặp một lúc đông người Việt Nam như vậy: những nét mặt đã từ lâu cậu không được thấy. Sau đó, nhiều đoàn uỷ lạo của Hội đã đến nhà nuôi dưỡng an ủi, giúp đỡ chung cho những người bất hạnh ở đấy. Cô Bùi Thị Lan Hương viết bài về Hồng Lĩnh kèm theo nhiều ảnh của cậu tung lên mạng Internet và lập tức các báo, các đài phát thanh hải ngoại và cả báo “Tuổi Trẻ” trong nước đều đưa tin. Nhà văn Trương Anh Thuỵ cũng viết bài bằng tiếng Anh để giới thiệu cho báo chí ngoại quốc. Anh Igor ở Đài phát thanh Nga đã viết nhiều bài tường thuật bằng tiếng Việt về Hồng Lĩnh để phát về Việt Nam. Rất nhiều người hảo tâm cả ở hải ngoại cũng như trong nước đã hưởng ứng nhiệt liệt, người thì cho tiền, người cho máy ghi âm, computer để cậu chuẩn bị đi học. Ở trong nước, các em thiếu niên cũng viết thư ủng hộ tinh thần Hồng Lĩnh. Nhiều người trong cộng đồng người Việt ở Nga đã góp tiền làm quỹ hàng tháng giúp cho cậu ăn học, do chị Đoàn Thị Kim Hoa chủ trì. Chị Nguyễn Thị Tuyết Mai từ Sài Gòn cũng đã nhiều lần bay đến Moskva thăm nom, giúp đỡ cậu và chuyển tiền các bạn trẻ Việt Nam và Ba Lan biếu cậu. Ngày 18 tháng 9 năm 1999, Hồng Lĩnh đến Trường đại học nghe buổi giảng đầu tiên với chiếc máy ghi âm được một vị hảo tâm gửi cho. Đó là một ngày vui không chỉ của riêng chàng sinh viên tật nguyền mà cho tất cả mọi người biết cậu. Báo “Người Việt” ở tận California cũng có bài loan tin vui này cho độc giả Việt Nam ở Hoa Kỳ. Anh em thạo máy tính ở Moskva, cả người Việt cũng như người Nga, như anh Phật tử Stanislav, đã giúp cậu cài đặt chương trình và học cách sử dụng computer, nhờ đó dần dần cậu tập được cách điều khiển máy vi tính bằng cái chân trái lành lặn để làm bài, ghi chép, tra cứu tài liệu. Chị Lyuba, Phật tử người Nga, chịu khó hàng tuần đến tận nhà nuôi dưỡng để dạy cậu học thêm về tiếng Anh và cô Đina, nữ sinh viên Phật tử Nga, cũng thường đến giúp cậu. Nhưng, khi được tuyển vào đại học rồi thì cái khó khăn vất vả nhất đối với Hồng Lĩnh là việc đi về từ nhà nuôi dưỡng ở Zvinhigorod đến Trường đại học ở Moskva cách xa hơn 70 cây số. Đối với một người bình thường phải ngồi hai giờ trên tàu hoả, rồi lại chuyển xe buýt mấy lần thì chặng đường đó cũng đã khá mệt, huống hồ một người tàn tật đi chân giả, còn hai tay giả cũng chẳng giúp được gì mà lại phải vác thêm cả một túi sách vở nặng thì lại càng mệt hơn gấp mấy lần. Nhất là trong thời kỳ băng giá mùa đông đường quá trơn lại càng dễ trượt ngã! Vì thế tôi đã đứng ra vận động để xin cho Hồng Lĩnh được chuyển từ Zvinhigorod đến nhà nuôi dưỡng ở Moskva. Đây là một việc khó khăn lắm, hầu như chẳng mấy ai tin là có thể làm được, vì những thủ tục hành chính quá phức tạp. Hơn nữa, thành phố Moskva nào có muốn nhận thêm người ở tỉnh khác, bắt ngân sách thành phố phải gánh chịu trong lúc chính ngay ở thủ đô còn biết bao nhiêu người cần được cứu giúp, nuôi dưỡng! Thế nhưng, dường như nhờ Trời Phật giúp, tôi đến vận động ở đâu đều được sự ủng hộ nồng nhiệt của nhiều người, trong số đó có nhiều vị hảo tâm ở Fond Mira (Quỹ Hoà bình) và nhiều nhân vật nổi tiếng, như các danh ca, các giáo sư, các nhà hoạt động xã hội. Không một người nào được yêu cầu mà từ chối ký tên vào bản kiến nghị với Thị trưởng! Nên cuối cùng, sau gần một năm vất vả chạy chọt, Thị trưởng Moskva Luzhkov đã chấp thuận. Tôi liền đi tìm và chọn được nhà nuôi dưỡng ưng ý, sau đó đưa Hồng Lĩnh đến xem và khi cậu đồng ý rồi thì tôi mới xin Sở xã hội Moskva cho cậu đến đúng nhà nuôi dưỡng đã chọn. Thế là từ đó, Hồng Lĩnh sống ở Moskva đi về dễ dàng hơn để có thì giờ học tập. Cố nhiên, trong việc học tập, nhất là năm học thứ nhất, mọi chuyện không hẳn suôn sẻ hết, nào là đuối môn tiếng Anh, nào là không kịp làm hết bài... nhưng với quyết tâm của Hồng Lĩnh thì dần dần rồi cũng vượt qua được cả và đến nay, chàng sinh viên đó đã học đến năm thứ tư rồi. Các bạn hãy nghĩ xem, cậu bé Việt Nam bảy tuổi bơ vơ nơi đất lạ quê người đã vượt qua một chặng đường lớn đến thế nào chỉ bằng... một chân trái lành lặn để vươn lên! Đáng mừng là sau khi chúng tôi tìm thấy Hồng Lĩnh, thì cậu đã nối lại liên lạc được với bố mẹ là ông Nguyễn Đức Bảo và bà Nguyễn Thị Xuyến ở Hà Nội, với anh ruột là Nguyễn Hoài Vũ ở nước Cộng hoà Tiệp (Czech). Nhưng cho đến nay họ vẫn chưa được gặp nhau, chỉ có thư từ thăm hỏi, quà tặng mà thôi; hơn nữa, thư bằng tiếng Việt thì chúng tôi cũng phải dịch ra tiếng Nga cậu mới hiểu được! Không những nối lại liên lạc được với người thân, cậu còn tìm được tình yêu - đã có vợ người Nga cũng là người tàn tật và mồ côi sống trong cùng nhà nuôi dưỡng ở tỉnh Moskva. Hai vợ chồng đã sinh được đứa con gái đầu lòng xinh đẹp, nét mặt rất Việt Nam, nay đã hơn hai tuổi mà cậu yêu quý vô cùng. Mỗi khi nói đến vợ con, mặt mày cậu rạng rỡ một niềm vui mà trước đây hiếm khi tôi được thấy ở cậu. Tôi biết rõ là cậu đang hưởng niềm sung sướng lớn nhất đời cậu, cậu đạt được cái hạnh phúc giành lấy bằng đôi tay cụt lủn và ý chí mạnh mẽ của cậu. Tôi cũng muốn nói thêm là cậu hoàn toàn giấu kín việc có người yêu và lấy vợ với mọi người, kể cả với chúng tôi. Dường như cậu có mặc cảm, sợ bị chê cười là đã tật nguyền như thế lại còn đèo bòng chuyện vợ con! Chỉ do một sự tình cờ mà chúng tôi mới biết được thôi: chị Lyuba vẫn thường đến giúp cậu học tiếng Anh, có một lần chị đến phòng cậu để dạy thì cậu đi vắng, bỏ quên trên bàn giấy chứng nhận kết hôn, hỏi những người sống cùng phòng thì họ nói: hình như nó đến với vợ. Sau đó tôi hỏi cậu, cậu mới nói thật, khi thấy tôi thành thật chúc mừng thì cậu yên tâm. Đây quả là một bước mới trên con đường xây dựng hạnh phúc của cậu. Lúc này, đài truyền hình Hà Nội cũng đã đến Moskva quay phim về cậu để giới thiệu cho bà con trong nước biết cuộc sống của cậu. Còn hai nhà văn Nguyễn Ngọc Bích và Trương Anh Thuỵ từ Washington đi họp Đại hội Văn Bút Quốc tế ở Moskva cũng đã cùng tôi đến tận nhà nuôi dưỡng thăm Hồng Lĩnh, tặng quà và khuyến khích cậu. Tuy nhiên, nhiều lúc nhìn Hồng Lĩnh, chồng tôi và tôi đều thấy lòng mình se lại, không yên tâm bởi một nỗi lo thầm kín: cậu đem hết tâm lực lao vào một môn học thật khó mà không biết rồi đây khi đã tốt nghiệp xong, trong cuộc cạnh tranh quyết liệt trên thị trường lao động ở cái siêu đô thị trên mười triệu dân này với bao nhiêu luật gia tài năng, lại khoẻ mạnh, lại lành lặn, lại là người Nga “chính cống”, thì không biết Hồng Lĩnh của chúng ta có chen chân nổi hay không? Rồi đây, trên bước đường công danh và sự nghiệp, cậu có đạt được gì như lòng mong ước và chí hướng của cậu không? Rồi đây cậu có thể sống tự lập hoàn toàn như ước vọng của cậu không? Điều đó chúng tôi không thể tự trả lời mình được! Còn hiện nay, Hồng Lĩnh vẫn gặp không ít khó khăn, mà cái khó khăn lớn nhất là chồng sống một nơi vợ con một nẻo! Đã hơn một năm trời, cậu chạy vạy hết nơi này đến nơi khác để xin cho vợ con từ nhà nuôi dưỡng ở Zvinhigorod được chuyển đến chỗ cậu tại nhà nuôi dưỡng ở Moskva mà... không được! Trong chuyện này cũng thể hiện một phần nào tính cách “tiêu cực” của cậu – không biết giao tiếp, không biết xã giao mà tôi đã nói trên. Số là khi làm đơn xin chuyển vợ con đến nhà nuôi dưỡng ở Moskva, cậu chẳng bàn bạc gì với tôi, nên lá đơn cậu viết không đúng phép lịch sự thông thường! Tôi không được biết gì về chuyện đó cả, thì một hôm bà cán bộ ở Sở xã hội Moskva gọi điện cho tôi, bà hỏi: sao Hồng Lĩnh lại có thể viết cho chúng tôi một lá đơn lạ lùng như thế, đơn xin mà đầy lời lẽ đòi hỏi và thậm chí còn đe doạ chúng tôi nếu không giải quyết thì sẽ thưa kiện?! Tôi đã hết lời khẩn khoản van xin bà bỏ lỗi cho cậu ấy quá trẻ người non dạ, xin bà bỏ quá cho, tôi trình bày sự khó khăn của cậu... Bà là người tốt bụng, sau khi nghe tôi nói, bà bảo: chúng tôi chẳng chấp đâu, nhưng có một nguyên tắc ở Moskva mà chúng tôi không thể nào vượt qua được - trẻ con phải ở nhà nuôi dưỡng riêng có giáo viên dạy dỗ và bác sĩ thiếu nhi chăm sóc, chứ không thể để ở chung với cha mẹ trong nhà nuôi dưỡng dành cho người lớn, mà con của Hồng Lĩnh thì không có một tiêu chuẩn nào để đưa vào nhà nuôi dưỡng trẻ con cả, vì nó không mồ côi, không tật nguyền. Đúng là như vậy! Khó khăn này hầu như đã là bế tắc! Cho nên cứ mỗi kỳ nghỉ hay mỗi lần “cuối tuần” cậu lại phải lóc cóc đi về tận nhà nuôi dưỡng của vợ xa trên 70 cây số để hưởng bầu không khí của tổ ấm gia đình! Tuy nhiên, khó khăn gì thì khó khăn, tôi vẫn tin chắc là với ý chí mãnh liệt vươn tới hạnh phúc, cậu sẽ giữ vững được cái hạnh phúc đang có và làm cho nó ngày một vững hơn! Còn trong tương lai, cậu đạt được hạnh phúc lớn hơn thế nào nữa thì còn tuỳ những tính chất khác của cậu, tuỳ sự thành đạt, môi trường sinh sống của cậu và sự may mắn trong cuộc đời. Tôi chỉ biết cầu mong cậu đạt được ước mơ đang ấp ủ!

Thế mà có những người hoàn toàn khoẻ mạnh, trẻ tuổi và không nghèo khổ chút nào lại thường xuyên khóc lóc, than vãn về cuộc sống, mất ăn mất ngủ, bị trầm uất, không hài lòng về mọi việc, hao gầy đi vì đố kỵ với người khác, không có bạn bè, làm cho người thân thêm khốn khổ, v.v... và v.v... Chắc là bạn cũng biết loại người như vậy. Cho đến chết họ vẫn không học được cách sống! Thậm chí có khi họ đạt được đỉnh cao trong một lĩnh vực nào đó, đường công danh đàng hoàng thì thử hỏi họ có hạnh phúc không, và có thể coi họ là người thông minh được không? Tôi tin chắc rằng bạn hoàn toàn không muốn sống cuộc đời như những kẻ than vãn, khóc lóc “chuyên nghiệp” này. Nếu bọn họ không tự tử (những kẻ than vãn rất ít khi làm chuyện này) thì trong một mức độ nào đó cũng có thể coi họ là những kẻ tự tử, vì họ hết năm này qua năm khác đã tự huỷ hoại, tự đầu độc mình bằng thái độ đối với bản thân và đối với cuộc sống. Cho nên, hãy bớt than vãn về cuộc sống, bạn ạ! Mà hãy làm việc nhiều hơn, vượt qua khó khăn và làm cho cuộc sống của mình thật sự hạnh phúc. Nên nhớ: “Tình trạng bế tắc thường không phải là do không có lối thoát mà là do mình không đủ khả năng tìm ra nó” - E. A. Sevrus, (1948- ), nhà văn Nga. Cũng xin nhắc thêm câu tục ngữ phương Đông này: “Thà đốt ngọn đèn lên hơn là than vãn đêm tối đen”. Làm thế nào vun đắp hạnh phúc của mình - chương sau chúng ta sẽ nói đến. Và hãy nhớ rằng sức khỏe tuỳ thuộc rất nhiều vào tính cách con người, tuỳ thuộc vào thái độ của người đó đối với cuộc sống và đối với người khác, tuỳ thuộc vào trạng thái tâm hồn. Những người bình thản, hiền lành, tốt bụng và không ghen tị sống khỏe mạnh và sống lâu hơn nhiều so với những người hung dữ, độc ác, hay ghen tị và không bao giờ hài lòng về điều gì hết. Đối với tín đồ các tôn giáo, hạnh phúc chân chính, tối thượng được biểu tượng bằng Niết bàn, hay Thiên đường, Nước Chúa Trời, Tây Phương Cực Lạc... còn bất hạnh khủng khiếp được biểu tượng bằng Địa ngục, Hoả ngục... Đức Phật Thích Ca đã dạy: “Niết bàn là do cái tâm”. Còn Đức Chúa Jesus cũng dạy: “Nước ChúaTrời nằm ngay trong lòng chúng ta”. Như thế có nghĩa là Thiên đường hay Địa ngục, hạnh phúc hay bất hạnh đều do tâm hồn, tâm linh, tâm tính, tính cách... của con người mà ra. Để minh hoạ điều đó, tôi xin kể một giai thoại Phật giáo có tính giáo huấn sâu sắc:

“Một vị hoà thượng đang đứng ngắm cảnh đẹp núi sông. Bỗng một võ sĩ oai phong lẫm liệt từ đâu đến vái chào: - Bạch Sư Cụ, xin Sư Cụ cho biết: Niết bàn ở đâu và Địa ngục ở đâu? Nhà sư vẫn trầm ngâm ngắm cảnh, không nói năng gì. Người võ sĩ cố hỏi lại lần nữa. Vị hoà thượng vẫn điềm nhiên lặng thinh. Võ sĩ đùng đùng nổi giận, rút gươm xông tới. Bấy giờ hoà thượng mới giơ tay ra ngăn lại và nói: - Đấy! đấy! Địa ngục ở đấy, chứ còn đâu nữa! Hoàn hồn, người võ sĩ nguôi giận ngay, ngượng ngùng mỉm cười. Hoà thượng chỉ vào anh ta đang cười và điềm nhiên nói: - Còn đây là Niết bàn! Người võ sĩ tra gươm vào vỏ, cúi đầu bái phục.

Bạn đã hiểu rồi chứ?

  • * *

Thế là bạn đã xác định được bạn có những nét tính cách nào. Xác định thế để làm gì tiếp? Bây giờ chúng ta cùng nhau suy nghĩ xem những nét tính cách nào quyết định nếp suy nghĩ này hay nếp suy nghĩ khác, lối sống này hay lối sống khác, tương lai này hay tương lai khác. Tất nhiên, thật dễ hiểu là hoàn cảnh sinh sống, cũng như những chuyện tình cờ khác nhau đều có ảnh hưởng đến những điều nói trên. Không phải ngẫu nhiên người ta nói: “Gieo hành động nào gặt thói quen ấy, gieo thói quen nào gặt tính cách ấy, gieo tính cách nào gặt số phận ấy”.

Bây giờ chúng ta hãy xem, điều gì chờ đợi những người có những nét tính cách như hung dữ, độc ác hoặc hiền lành, tốt bụng. Có rất nhiều từ đồng nghĩa hoàn toàn hay đồng nghĩa một phần với những từ này. “Hiền lành” - tốt bụng, hiền hậu, từ bi, sẵn sàng giúp đỡ, giàu lòng trắc ẩn, không để bụng, thiện ý, hào phóng, sẵn sàng chia sẻ. “Hung dữ” - dễ cáu gắt, cuồng nộ, thù dai, vô cảm, nhẫn tâm, độc ác, tàn bạo, dã man, hung bạo, độc địa, v.v... Tôi xin nhắc lại lần nữa rằng cuốn sách tôi viết không phải là công trình khoa học mà là công trình mang tính thực dụng với mục đích giúp đỡ các bạn trẻ và người thân của họ. Tôi không đưa ra những thuật ngữ khoa học mà là những khái niệm có lợi cho cuộc sống, cũng như sinh hoạt thường ngày và quan hệ tương hỗ giữa người với người. Từ “độc ác” rõ ràng không hoàn toàn có cái nghĩa của từ “hung dữ”. Nhưng tại sao con người lại độc ác? Bởi vì anh ta tính hay nổi nóng, hung dữ, hung bạo, ác độc và không hài lòng về điều gì đó, tức giận lên và nói ra cái giận hay cái không hài lòng đó. Thật là may, sự giáo dục không cho phép anh ta đấm vào mõm cái người mà anh ta thù ghét. Hung dữ chỉ là biểu hiện bề ngoài của tính độc ác của anh ta. Cho nên, trong mục đích của chúng ta, hai khái niệm “hung dữ” và “độc ác” có thể dễ dàng kết hợp trong một nhóm từ. Bây giờ chúng ta nói về con người hung dữ, độc ác. Những người xung quanh hầu như không bao giờ cảm thấy ở anh ta lòng tốt, sự quan tâm chú ý, cảm tình và đồng cảm. Mọi người gần như luôn luôn cảm thấy ở anh ta sự hung dữ, độc ác, cáu tiết, cuồng nộ, hung hăng và thích trấn áp người khác. Anh ta lúc nào cũng thấy không bằng lòng với tất cả mọi thứ và, tất nhiên, trong chuyện này anh quy lỗi cho mọi người, trừ bản thân anh ta. Thường thường cái hung dữ của anh ta trút lên những người thân nhất – cha mẹ, vợ, con cái, đồng nghiệp, bạn bè, v.v... Vì không thể xông vào thủ trưởng để nói toạc ra những điều không hài lòng của mình, còn với chính những người thân nhất thì có thể làm tình làm tội họ cả đời (hay là đến khi họ không chịu đựng được nữa thì mới thôi). Nhiều khi những người hung dữ không chỉ kêu la, chửi bới mà còn thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Có khi trong cơn tam bành, họ làm bị thương và thậm chí giết hại những người vô tội, kể cả con cái hoặc bố mẹ mình. Bạn nghĩ xem, điều gì chờ đợi con người đó trong cuôc đời? Anh ta sẽ có hạnh phúc hay không? Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ về việc này. Hãy lấy một ví dụ điển hình: một người rất hung dữ và không biết tự kìm chế. Khi anh ta tức giận lên (tức giận thường xuyên chỉ vì những lý do không đâu), trông anh ta thật dễ sợ. Nếu thêm vào đó, anh ta còn ngu nữa, anh ta có thể tự hào và khoe khoang rằng tất cả mọi người đều sợ anh ta. Cuộc sống gia đình của anh ta như thế nào? Vợ anh ta khó lòng chịu đựng người chồng như thế. Rốt cuộc, chị ấy cũng bỏ anh ta và anh ta tay trắng vẫn hoàn trắng tay - vô gia đình. Nếu anh ta có lập gia đình lần thứ hai (thứ ba, thứ tư) chăng nữa, thì mọi sự cũng sẽ lặp lại với những chi tiết khác mà thôi. Còn nếu người vợ cứ ở lại với anh ta đến cuối đời mình hay đời anh ta chăng nữa, thì có thể vì những lý do sau: hoặc là chị ấy ngu ngốc, hoặc là quá hiền lành, tốt bụng, nhẫn nhục, sẵn sàng chịu hy sinh, hoặc là chị ở trong tình trạng bế tắc vì không có nơi nào để ra đi (cũng có thể là chị sợ anh ta sẽ giết chị và con cái chị). Con cái cũng không yêu anh ta, bọn chúng không chỉ không yêu quý mà còn căm thù người cha như vậy. Chúng lớn lên bị suy nhược thần kinh, tính tình nhu nhược hay hung dữ, rất hay bị khủng hoảng tâm thần trầm trọng, không phản ứng đúng đắn với cuộc sống và những người xung quanh. Vì vậy, chúng học hành kém cỏi, không biết giao tiếp với những đứa trẻ cùng lứa tuổi, cho nên ít hoà nhập vào cuộc sống. Chúng rất khó phát huy được khả năng, khó đạt được trình độ chuyên môn và địa vị xã hội cao, và khó có hạnh phúc trong cuộc sống riêng tư. Có khi con cái hay người vợ bị dồn vào thế cùng quẫn vì nỗi sợ canh cánh, vì bị thường xuyên đè nén, đã giết chết cái kẻ mà họ căm ghét.

Bạn hãy nghe thêm chuyện tiếu lâm này:

Trong tuần trăng mật, hai vợ chồng mới cưới đi du lịch ở nước ngoài. Cô gái gọi điện về cho mẹ ruột vừa khóc lóc vừa hốt hoảng nói: - Mẹ ơi, làm sao bây giờ, tình trạng của con... khủng khiếp quá! Chúng con vừa mới cãi nhau kinh khủng... kinh khủng vô cùng... - Không sao, không sao, con cưng của mẹ, khi mới bắt đầu cuộc sống gia đình thường thế cả... Cãi nhau, giận hờn nhau đủ thứ, rồi lại làm lành với nhau ngay mà. Con hãy ăn cái kẹo sôcôla, rồi bình tâm lại. - Tất nhiên, sôcôla thì con ăn được, nhưng... nhưng... cái xác của anh ta thì phải làm sao đây?

Những týp người nói trên thường được nêu tên trong những tin tức hình sự: cãi nhau rồi giết (đâm cho tàn phế, đánh đập) vợ, con cái, bạn bè, hàng xóm, thủ trưởng hay bạn rượu. Con người với tính cách như vậy không kiểm soát được tình cảm của mình, và tình cảm chính của anh ta là tính hung dữ, độc ác. Thật ra, anh ta là kẻ nô lệ của tính xấu của mình. Những người như thế thường hay xích mích, cãi cọ, đánh nhau, vào tù ra tội. Cũng nhiều khi họ bị đánh đập, bị tàn phế hay bị giết. Thường thường họ có trình độ văn hoá rất thấp, thiếu học thức và nghiện rượu nữa. Mời bạn xem chuyện tiếu lâm:

Trong phòng khám của bác sĩ Freud: - Thưa bác sĩ, con trai tôi nó ác lắm: nào là đá chó mèo, đánh bạn nó, ngáng chân người lớn, nào là ngắt cánh bướm, mà lại còn cười nữa chứ! - Nó mấy tuổi rồi? - Cháu lên bốn ạ. - Nếu thế thì không đáng lo gì cả. Tật đó sẽ chóng qua thôi mà. Lớn lên nó sẽ là người tốt bụng và lịch sự. - Xin cảm ơn bác sĩ đã làm tôi yên lòng. - Chẳng dám, thưa bà thân mẫu của Hitler.

Sức khỏe của người hung dữ như thế nào? Vì anh ta luôn luôn bực tức hay nổi xung, giận dữ, nên thần kinh anh ta thường xuyên căng thẳng. Anh ta sống trong tình trạng stress (rối loạn tâm sinh lý - ND) thường xuyên, không có tình bạn của những người xung quanh, không có sự quan tâm, đồng cảm hay tình yêu. Anh ta chỉ sống với nỗi sợ, lòng căm thù, sự độc ác và thù địch. Tình trạng thần kinh căng thẳng thường xuyên như vậy sẽ làm tổn hại đến các cơ quan nội tạng, như tim, gan, v.v... và nhiều khi gây ra bệnh loét dạ dày. Cho nên những người hung dữ, độc ác thường giảm thọ. Thật đúng là: “không có kẻ thù nào có thể làm hại con người bằng chính bản thân anh ta”. Người hung dữ cũng giống như con thú bị dồn vào đường cùng: anh ta thường xuyên phải phản công (không quan trọng bằng lời lẽ hay tay chân, vì thực chất cũng thế thôi) bởi vì anh ta cho rằng quanh anh ta chỉ là kẻ thù và không hy vọng ở những tình cảm thân thiện hay tốt đẹp của người khác được. Thực ra anh ta sợ tất cả mọi người, vì không biết chan hoà hay tìm cách thoả thuận với mọi người xung quanh. Anh ta chỉ biết quát thét và công kích. Trước đây, tôi đã đưa ra câu danh ngôn: “Bọn ngu chỉ biết đánh nhau, còn những người khôn thì biết thoả thuận nhau”. Dễ hiểu, những kẻ hung dữ cũng không biết thoả thuận mà chỉ biết công kích thôi. Cho nên những từ “hung dữ” và “ngu ngốc” cũng như những từ “hiền lành” và “thông minh” trong trường hợp của chúng ta có thể xem là những từ đồng nghĩa: “những kẻ hung dữ chỉ biết đánh nhau, những người hiền lành thì biết thoả thuận nhau”. Điều gì chờ đợi người hung dữ ở chỗ làm việc? Cũng như ở nhà thôi, chỉ có điều là tình hình nhẹ nhàng hơn đôi chút: con người ở chỗ làm việc chỉ bảy - tám giờ, còn ở nhà thì cả đời. Hơn nữa, ở chỗ làm việc, người ta thường ghìm mình phần nào, chứ ở nhà thì sẵn sàng thượng cẳng chân hạ cẳng tay ngay. Nếu anh ta là xếp thì những người thuộc hạ sẽ căm thù anh ta và khi có thể thì sẵn sàng làm hại, lừa bịp anh ta hay đi làm chỗ khác. Tập thể cùng làm việc với anh ta thường có những mối căng thẳng nội bộ, những xích mích, tình trạng nhiều người bỏ việc, kết quả công việc kém sút, và tình trạng này càng làm cho anh ta thêm tức giận và hung hăng. Thuộc cấp của anh ta luôn luôn có lỗi trong tất cả mọi chuyện và anh ta chì chiết, chửi mắng, sỉ nhục họ. Tại chỗ làm việc cũng như ở nhà, tất cả mọi người đều có lỗi trong mọi chuyện trừ mỗi anh ta. Anh ta luôn luôn hành động theo nguyên tắc: “tôi là xếp – anh là thằng ngu, anh là xếp – tôi là thằng ngu”. Nếu anh ta chỉ là thuộc cấp hay nhân viên bình thường, anh ta cũng thường xuyên va chạm với đồng nghiệp, làm cho cuộc sống và sức khỏe của họ và của mình xấu đi, chỉ có điều khác: trong trường hợp này, những người xung quanh không phụ thuộc vào anh ta. Còn quan hệ anh ta với bạn bè thì thế nào? Có lẽ là như nhân vật trong chuyện tiếu lâm dưới đây:

Trong cuộc khám nghiệm tâm lý: - Bác sĩ ơi, chẳng có ai yêu tôi cả, tôi chẳng có bạn bè gì hết. Hay là ông giúp tôi đi, lã-ão già-à đê-ê-ê tiệ-ệ-n và độ-ộc á-ác ki-ia!

Có lẽ đối với bạn thế là đủ rồi nhỉ? Quả thật là chỉ đọc về những con người như vậy thì đã thấy ghê tởm rồi, có phải không? Có thể bạn sẽ nói rằng cái týp người du côn (nhiều khi là những kẻ tội phạm) như vậy thì hiếm có, và không có liên quan gì đến bạn cả. Nếu đúng như thế, thì tất nhiên, tôi lấy làm mừng cho bạn, nhưng bạn đừng vội quả quyết như thế. Nếu người đó lại chính là thủ trưởng của bạn, là đồng nghiệp, là bà con hay hàng xóm của bạn thì thế nào? Hãy thử nghĩ xem, nên tiếp tục có quan hệ với anh ta hay là phải có biện pháp cần thiết ngay: tìm việc làm khác (chuyển sang phân xưởng khác, bộ phận khác, phòng khác), cắt đứt quan hệ, đổi nhà, v.v. và v.v... Đôi khi các biện pháp dứt khoát như vậy thậm chí có thể cứu vãn cuộc sống con người. Rất có thể xung quanh bạn có nhiều người mà bạn coi là hung dữ, mà có thể là chính bạn cũng hung dữ thì sao? Họ không hung dữ đến mức nói trên, nhưng theo bạn họ cũng khá hung dữ. Trước hết, bạn hãy kiểm chứng lại xem bạn có khách quan không, hay là do lòng đố kỵ, giận hờn, v.v... mà bạn nghĩ như thế, có phải thực sự là họ hung dữ hay không. Sau đó, hãy quan sát họ (nếu bạn coi mình cũng hung dữ hay là những người khác cũng coi bạn như vậy thì hãy quan sát bản thân luôn) trong một thời gian khá lâu xem cuộc sống của người ta như thế nào, họ hạnh phúc ra sao. Và bạn sẽ thấy cả ở nhà lẫn ở chỗ làm việc, họ không có hạnh phúc mà cũng chẳng có cả sự yên bình hay những lúc thư giãn. Bây giờ bạn hãy nghĩ đi: có nên hung dữ, độc ác hay không? Làm như vậy có khôn không? Cái ác có đem lại hạnh phúc cho bản thân mình và cho những người xung quanh hay không? Trước khi bàn tiếp, mời bạn nghe Đức Phật dạy gì về người hung dữ, độc ác trong Kinh Pháp Cú: “Nay than thở, mai còn than thở, Kẻ ác tâm khổ sở hai đời. Hắn còn đau khổ lâu dài Mỗi khi nhớ lại điều sai mình làm” (câu 15). Còn về người hiền lành, tốt bụng, Ngài nói: “Nay vui sướng mai còn vui sướng, Kẻ làm lành vui sướng hai đời. Anh còn sung sướng lâu dài Mỗi khi nhớ lại điều ngay mình làm” (câu 16) - Thiện Nhựt dịch.

Trường hợp sau đây cũng có thể xảy ra: một người trẻ tuổi, đẹp trai, có cuộc sống sung túc, đọc nhiều hiểu rộng, hóm hỉnh, v.v... nhưng hung dữ. Có một cô gái chân thành yêu anh ta (hay là chàng yêu nàng là người hung dữ) và họ lấy nhau. Viễn cảnh của cuộc hôn nhân của họ như thế nào? Nếu hai người hung dữ lấy nhau thì cuộc hôn nhân ấy không có tương lai, nếu ... không phải lấy nhau do tính toán lợi lộc. Nếu như chúng ta nói về hôn nhân dựa trên tình yêu thì cuộc hôn nhân ấy chóng vỡ. Bởi vì hai con bò cạp không thể cùng sống chung trong một cái lọ: nếu không có chuyện đánh chửi nhau, hai vợ chồng không thể cùng chung sống hoà bình, mà thường xuyên “tranh giành quyền lực”, thường xuyên chứng tỏ thế mạnh của mình hay giành vị trí người chủ trong gia đình. Thay vì sự hợp tác trong công việc gia đình là cuộc tranh giành quyền làm chủ trong nhà, và cuộc tranh giành này không thể kéo dài mãi được: ai không chịu được nữa thì phải rút chạy. Về những cuộc hôn nhân tan vỡ như vậy người ta thường nói: “không hợp tính cách” – là hoàn toàn đúng. Bởi vì các bạn trẻ đã không phân tích kỹ tính cách của nhau từ trước, không thử tính đến những trường hợp có thể xảy ra, không nhường nhịn nhau, không sửa chữa bản thân và kiên trì cùng nhau xây dựng hạnh phúc chung. Ly dị là đau khổ, phiền muộn, là những số phận tan vỡ, là bệnh tật, và nhiều khi là những đứa con bị bỏ rơi. Nếu thông minh từ trước thì tất cả những điều này đều có thể tránh được hoặc làm giảm nhẹ phần nào. Hôn nhân của một người hung dữ với người hiền hậu, tốt nết, nhẫn nhục và không để bụng thì sẽ bền vững hơn nhiều. Người vợ (hay chồng) hiền lành có thể đủ kiên nhẫn để chịu đựng cuộc hôn nhân này đến cuối đời. Mà khó nói được thế là tốt hay xấu và ai là bên bị đau khổ. Như vậy là cặp vợ chồng đó chọn phương án tốt nhất cho họ: giữ được gia đình mà không phải ly dị. Thế thì ở đây chẳng có gì đáng nói nữa. Ít nhất, con cái họ cũng được sống trong một gia đình đủ bố mẹ và không bị thiếu bố (hay thiếu mẹ) mặc dù chúng có thể phải chịu đựng tính cách xấu của bố hay mẹ chúng. Trong hôn nhân của hai người “hung dữ - hiền lành”, chắc chắn là cả hai vợ chồng đều bất hạnh - một người vì tính xấu của mình làm hại cuộc đời và thần kinh của mình, còn người kia bất hạnh vì phải thường xuyên chịu đựng cái tính hung dữ của vợ (hay chồng) mình, và điều đó tất nhiên giảm thiểu tuổi thọ của người ấy. Nhưng, cuộc hôn nhân tan vỡ cũng làm giảm tuổi thọ, cho nên không biết được cái gì tốt hơn và cái gì xấu hơn. Mời các bạn xem giai thoại sau đây:

Có một cô gái đến gặp vị linh mục xin ý kiến: - Thưa Cha, con không biết phải giải quyết thế nào. Có một thanh niên rất đỗi yêu con và con cũng thích anh ấy. Con muốn được lấy anh ấy làm chồng và tìm được hạnh phúc. Mặt khác, con lại rất sùng đạo và cứ đến nhà thờ là lòng con lại lâng lâng thuộc về Chúa. Cả đời con chỉ mong luôn luôn được nghe tiếng chuông nhà thờ và đọc kinh cầu Chúa. Con rất muốn vào tu viện để được làm nữ tu. Vậy xin Cha hãy khuyên con phải làm thế nào đây? - Con ạ! Nếu con có lòng kiên trì và nhẫn nhục như thiên thần thì dù con có đi lấy chồng hay vào tu viện thì cũng như nhau cả thôi. Còn nếu con không có chút nào lòng kiên trì và nhẫn nhục thì hãy về nhà mà sống một mình, con ạ!

Cũng tượng tự như vậy, trong quan hệ bạn bè: tình bạn giữa hai người hung dữ không thể kéo dài lâu được, trong khi đó đôi bạn “hung dữ - hiền lành” dù sao vẫn có thể tồn tại và thậm chí có thể chơi với nhau suốt đời, nhất là nếu như hai người bạn đều có những kỷ niệm chung gì đó hay những thú vui chung (lái mô tô, vẽ tranh tường, sưu tầm tem, bơi lặn, trượt băng trên núi hay cái gì đó nữa) Cho nên, trước khi chọn bạn hay người yêu hãy suy nghĩ và cân nhắc cho kỹ.

Có hai người đàn ông cãi nhau. Người này quát người kia: - Mày là con lừa, một con lừa thật sự! - Tao nghe điều này từ chính mõm con lừa ấy! Lúc đó có một người qua đường dừng lại và nói: - Hai ông cãi nhau làm gì? Hai ông đều là cùng dòng họ cả cơ mà!

Bạn có để ý rằng trong các câu chuyện cổ tích dân gian trên thế giới nói về hai anh em hay hai chị em, một người hiền lành, tốt bụng, còn người kia hung dữ, độc ác (hay về người dì ghẻ độc ác và người con riêng hiền lành của chồng, v.v...), sau cả một loạt gian nan phải gánh chịu thì cuối cùng, số phận của người hiền lành, tốt bụng luôn luôn tốt đẹp hơn so với người hung dữ, độc ác. Tôi tin rằng điều đó không chỉ xảy ra trong chuyện cổ tích mà cả trong cuộc sống nữa.

Bây giờ, chúng ta hãy xem cuộc đời của người hiền lành, tốt bụng như thế nào. Người ấy mềm mỏng, nhu mì, đầy thiện ý, sẵn sàng chia sẻ. Anh ta thường là bên bị động, nhường nhịn, hiến dâng chứ không phải là cố tranh giành cho mình được phần hơn, như người hung dữ, độc ác. Sống như vậy, anh ta thấy đơn giản và dễ chịu. Có thể là anh ta hay bị thua thiệt về mặt vật chất hay trên đường công danh, nhưng lại giữ gìn được sức khoẻ và sự thanh thản trong tâm hồn. Chắc chắn là anh ta hạnh phúc hơn nhiều, so với người hung dữ, độc ác. Chỉ anh ta mới có được một tổ ấm gia đình, có những người bạn chân thành và chung thuỷ, những đồng nghiệp đầy thiện ý. Trong những lúc khó khăn, chỉ có anh ta mới được mọi người giúp đỡ một cách thành tâm, thậm chí cả những người mà anh ta chẳng bao giờ hy vọng vào sự giúp đỡ của họ. Kẻ hung dữ, độc ác làm người ta sợ, chứ người hiền lành, tốt bụng thì được kính trọng và yêu quý. Khác với kẻ hung dữ, độc ác, người hiền lành, tốt bụng mới có cuộc hôn nhân bền vững, tình bạn tốt đẹp và chân thành ngay cả với người hung dữ, độc ác, và cố nhiên, nhất là với người hiền lành. Như vậy theo thuyết xác suất, người hiền lành, tốt bụng có nhiều cơ hội tìm được hạnh phúc hơn so với người hung dữ, độc ác. Một điều đáng chú ý là người hiền lành, tốt bụng đôi khi bắt buộc phải tỏ ra hung dữ phần nào đó, ví dụ, khi anh ta gặp cái ác, sự bất công, khi anh ta buộc lòng phải tự vệ hay là bảo vệ người thân (kể cả bằng vũ lực lẫn bằng lời nói) chống lại sự công kích, tấn công hay đe dọa. Chẳng hạn, tất cả các huấn luyện viên thể thao đều nhất trí nói rằng không có sự hung bạo đặc biệt trong thể thao thì không thể chiến thắng được trên sàn đấu quyền Anh cũng như trên sân cỏ bóng đá. Về lòng tốt bụng cũng có nhiều danh ngôn và tục ngữ hay.

“Tôi cho rằng không có gì cao cả hơn lòng tốt bụng”. - Ludwig van Beetthoven (1770 – 1827), nhà soạn nhạc Đức.

“Cái thiện tốt hơn cái đẹp”. - Heinrich Heine (1797 – 1856), thi hào Đức.

“Cái nết đánh chết cái đẹp”. - Tục ngữ Việt Nam.

“Cái thiện là sự kết hợp của ý chí và lương tâm”. - Phương ngôn cổ Trung Hoa.

“Chẳng có gì xấu hơn lòng tốt bụng giả tạo. Lòng tốt bụng giả tạo kinh tởm hơn thói hung ác công nhiên”. - Lev Tolstoi (1828 – 1910), văn hào Nga.

“Người thật sự tốt bụng cũng phải biết thật sự hung dữ khi anh ta phải đối mặt với cái ác, bằng không cái tốt bụng của anh ta chỉ là viển vông và không đáng giá gì, nếu xét về mặt giá trị xã hội của nó”. - Konstantin Simonov (1915 – 1979), nhà văn Nga.

  • * *

Bây giờ bạn hãy suy nghĩ và hãy chọn xem bạn nên làm người nào - người hiền lành, tốt bụng hay người hung dữ, độc ác? Hạnh phúc của bạn thế nào - của người tốt bụng, hiền lành hay người hung dữ, độc ác? Bạn khó trả lời à? Hay là bạn vẫn thích hơn thứ hạnh phúc của người hiền lành? Chính phải là như thế! Tất nhiên, bạn sẽ nảy ra câu hỏi: Một người đã nhận thấy mình quá hung dữ thì phải làm gì? Còn phải hỏi nữa! Tất nhiên là phải đấu tranh vì bản thân, vì hạnh phúc của mình. Điều này tuy khó, nhưng vẫn phải làm, kiên trì làm, quyết tâm làm, bởi vì hạnh phúc là cái đích chính trong cuộc đời mỗi người. Cho nên hãy đấu tranh và chiến thắng vì bản thân và vì những người thân của mình! Hơn nữa, cái thắng lợi vĩ đại nhất là thắng lợi của con người với chính bản thân mình. Hãy thử đi và bạn có thể sẽ chiến thắng trong cuộc chiến đấu gay go này. Tiện đây, tôi xin dẫn vài câu Đức Phật đã dạy về đấu tranh và chiến thắng mình trong Kinh Pháp Cú: “Chiến thắng ngàn ngàn người nơi quân trận, Chưa vẻ vang bằng chiến thắng được mình” (câu 103), và “Thắng được mình quả thật vẻ vang, Còn vẻ vang hơn thắng kẻ khác” (câu 104).

Nói chung, có thể nói điều sau đây: Nếu cuốn sách này buộc bạn phải suy nghĩ sâu sắc và bắt đầu chú ý hơn đến bản thân và những người xung quanh, thì chỉ mỗi một điều đó thôi cũng đã tốt lắm rồi. Nếu bạn nhận thấy mình có thừa tính hung dữ, nó không cho bạn sống cũng như giao tiếp một cách bình thường và bạn sẵn sàng đấu tranh với nó, thì tôi có thể khuyên bạn những điều như sau: 1) Trước hết, hãy luôn luôn chú ý theo dõi bản thân và cố thường xuyên kiểm soát hành động mình. 2) Nếu cái hung dữ không thể điều khiển được cứ trào dâng lên trong bạn thì thử áp dụng mấy cách sau đây mà nhiều người biết đến. Cách này khá hiệu nghiệm: bạn hãy đứng (hay ngồi) yên, bình tĩnh đếm hơi thở nhẹ nhàng của mình, chú ý – khi hít vào cố thật sâu, thở ra thật lâu và nghĩ rằng cơn giận dữ trong mình đang thoát đi cùng hơi thở ra. Khoảng mười - mười lăm lần như vậy, bạn sẽ nguôi. Cũng có thể lặng thinh, bạn đếm đến mười (hai mươi, một trăm hay một nghìn cũng được) sau đó mới nói hay hành động. Hoặc có thể ngậm đầy nước trong miệng thật lâu - cách này cũng đỡ được phần nào. Cuối cùng, bạn có thể đi làm một việc gì đó hoàn toàn khác, như lau sàn nhà, gọt khoai tây, hút bụi tấm thảm hay chạy mười vòng quanh nhà... 3) Nếu đếm hơi thở hay đếm đến một nghìn mà vẫn không giúp gì được, và bạn sắp hành động mà sau đó có thể rất hối tiếc vì đã làm như vậy, thì hãy quay mình lại 180 độ và im lặng bỏ đi. Các nhà thông thái đã nói rằng cách tốt nhất để giải quyết va chạm là tránh nó. 4) Hãy viết nhật ký và ghi những thành tích hay thất bại của mình. Điều rất quan trọng là sau một thời gian bạn phải giảm đi những thất bại và tăng số lượng thành tích lên. (Lối làm này cũng giống như ngày xưa, các nhà hiền triết tu thân bằng cách dùng hạt đậu, mỗi lần làm việc gì xấu, cho vào hũ một hạt đậu đen, còn khi làm việc tốt thì cho một hạt đậu trắng vào hũ khác, cứ thế định kỳ đem ra đếm, so sánh số hạt đen, trắng nhiều hay ít để tự phán xét mình mà cố gắng sửa mình tốt hơn). Bạn hãy cố phân tích xem tại sao bạn lại thất bại và cái gì đối với bạn khó chịu nhất, dễ nổi xung nhất - những cái cười nhạo, sự khinh bỉ, sự sỉ nhục, thái độ hung hăng hoặc thờ ơ, v.v... 5) Hãy cố tránh tiếp xúc với những người mà bạn khó chịu nhất. 6) Phương pháp có một không hai và tương đối khác thường là: hãy trực diện nói chuyện đàng hoàng, tử tế, thân mật, đến nơi đến chốn với cái người khó chịu này. Đề nghị anh ta kết bạn hay ít nhất là giảng hoà nhau, thay vì thù hận. Nếu anh ta chỉ chờ đợi ở bạn cái ác thì cách này của bạn có thể (nhưng không nhất thiết) tước mất vũ khí của anh ta và anh ta có thể thay đổi hẳn cách đối xử với bạn. Bạn giao tiếp với người đó sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều. Nhưng để làm được điều ấy cần phải có những điều kiện bắt buộc sau: nói chuyện mặt đối mặt, hãy chân thành và biết cách thuyết phục, biết truyền đạt ý nghĩ của mình cho người đối thoại. Tuy nhiên, cách ăn nói sẽ được đề cập đến ở chương sau của cuốn sách này. Ngoài ra để làm được hành động nói trên thì phải có đủ dũng cảm và sự sáng suốt, thường hiếm có nhất là ở những người trẻ tuổi.

Để tăng hứng thú và kết thúc phần này, tôi xin đưa vài danh ngôn về đề tài đã bàn đến:

“Chẳng có một người độc ác nào hạnh phúc cả”. – Decimus Junius Junevalis (60 – 127), nhà thơ La Mã.

“Bất kỳ cái ác nào cũng là hậu quả của cái yếu”. – Jean Jacques Rousseau (1712 – 1778), nhà tư tưởng Pháp, nhà văn và nhà sư phạm.

“Cái ác không phải nằm ngoài mà nằm trong chúng ta: nó nằm trong tâm hồn chúng ta. Chữa khỏi nó rất khó vì không biết rằng chúng ta đang mang bệnh ác này”. - Seneca (4 trước CN – 65 sau CN), nhà thơ và nhà triết học La Mã.

“Cái ác là hình thức thô thiển nhất của sự ngu dốt”. - Nicolai Rerikh (1874 – 1947), hoạ sĩ và nhà tư tưởng Nga.

“Cái ác thường hí hửng, nhưng không bao giờ chiến thắng”. - Joseph Roux (1834 – 1905), nhà thơ Pháp.

“Đừng có trêu tức trẻ con: vì một khi đứa trẻ muốn đánh lại người trêu chọc, thì khi lớn lên, nó sẽ muốn giết”. - Pierre Bouast (1765 – 1824), nhà từ vựng học Pháp.

“Cái ác là một dạng nhát gan”. - Anton Chekhov (1860 – 1904), nhà văn Nga.

“Trí tuệ mất hết sự hấp dẫn của nó, khi nó tràn đầy cái ác”. - Richard Sheridan (1571 – 1816), nhà soạn kịch và nhà hoạt động chính trị Anh.

Đôi lời khuyên dành cho các bậc cha mẹ, ông bà

Cho dù con cháu quý vị có tính gì đi chăng nữa – hiền lành, tốt bụng hay hung dữ, độc ác – quý vị cũng phải cố gắng đến mức tối đa không cho chúng xem những phim đầu độc chiếu đầy trên tivi và có trong các băng cassette ở nhiều gia đình. Tôi muốn nói đến các phim bạo lực, đánh nhau, phim gây khủng khiếp và nhiều phim mệnh danh là “phim viễn tưởng”. Những bộ phim này tác hại kinh khủng đối với bất kỳ đứa trẻ nào. Nếu đứa trẻ hiền thì những phim bạo lực sẽ làm tổn thương nó, có thể dẫn đến chấn thương tâm lý, yếu thần kinh hay đái dầm, v.v... Nếu đứa trẻ dữ thì những phim tương tự có thể dẫn nó đến những hành động hung bạo, độc ác, đôi khi còn phạm tội nữa. Những bộ phim này tiêm vào nó ý thức là nó có thể làm bất cứ điều gì như các nhân vật trong phim mà không hề bị trừng phạt và cuộc sống người khác chẳng có nghĩa lý gì với nó cả. Dễ hiểu là ý thức đó trước tiên sẽ đánh (trong tương lai rất gần) vào những người thân nhất của nó, nghĩa là cha mẹ, ông bà và anh chị em. Nếu các vị quan tâm đến con cháu mình (và chính là quan tâm đến số phận các vị lúc về già) thì phải hết sức quan tâm đến việc giáo dục chúng. Trước hết, các vị đừng bao giờ xem các phim tương tự khi có trẻ bên cạnh. Dù các vị có xem lúc không có nó đi chăng nữa, thì điều ấy chỉ chứng tỏ sự vô tâm, vô cảm, chai lì và trình độ văn hoá thấp của các vị. Trong trường hợp này, các vị có lẽ sẽ chẳng làm theo được những lời khuyên của tôi và chẳng làm được điều gì bổ ích cho con cháu các vị. Khi đó, các vị cứ việc tiếp tục như trước đây, cho chúng ăn uống, nuôi nấng, dạy dỗ chúng tuỳ theo khả năng các vị, chiều chuộng chúng theo cách của các vị. Như thế đã là tốt lắm rồi. Và chưa chắc các vị có thể làm được gì hơn nữa. Nếu thế thì các vị hãy dẹp cuốn sách này đi và cứ tiếp tục đọc cái truyện trinh thám bạo lực yêu quý của các vị, mà không phải bận tâm về việc con trai hay con gái các vị lớn lên sẽ là người như thế nào. Chỉ có điều là sau này, các vị đừng có trách: “Làm sao nó có thể hành động một cách hung dữ, ác độc với chúng tôi thế nhỉ?...”, v.v. và v.v... Nhiều đứa trẻ rất thích xem những phim nói trên. May thay, chúng (tất nhiên không phải là tất cả) hiểu rõ: phim là phim mà đời là đời. Nhưng trong số những đứa trẻ đó, khi lớn lên, một số lại vẫn trở thành kẻ giết người (đôi khi là giết người hàng loạt), những tên trộm cướp, kẻ bạo dâm. Nhiệm vụ của các vị là làm tất cả để trong tương lai dù thế nào chăng nữa, các vị cũng có thể nói rằng: “Ừ, chúng ta đã làm tất cả những gì có thể làm được để nuôi dạy con cái thành người có tâm thần ổn định!”. Để làm điều này thì xin hãy gắng sức lên. Những điều cấm đoán ít khi đem lại kết quả mong muốn, mà đôi khi còn có tác dụng ngược lại. Đứa trẻ càng lớn càng không nên dùng cách giáo dục độc đoán, như cấm đoán một điều gì đó. Tốt hơn là các vị bật lên một chương trình truyền hình hấp dẫn nào đó, rồi hãy ngồi xem cùng với trẻ, bình luận và thậm chí còn có thể thảo luận với nó. Có thể cùng trẻ đọc sách, tâm sự với nó, nhờ nó dạy cách sử dụng máy vi tính (máy ảnh, xe máy...). Nói chung, hãy cố làm sao cho trẻ thấy hứng thú khi cùng chơi hay cùng làm gì đó với các vị (hay với bạn bè, nhưng tất nhiên, không phải cùng xem những bộ phim nói trên). Cùng chuyện trò với bác Nghĩa hay thím Kim Anh hơn là xem những thứ bậy bạ. Cố làm cho sự giao tiếp với con người lôi cuốn trẻ con hơn là những trò dở hơi. Những trò này có tác động rất xấu đến tiềm thức ngay cả của người lớn, chứ đừng nói gì đến trẻ con. Khi đó con cháu các vị sẽ có nhiều cơ hội hơn để trở thành người không chỉ hiền lành, tốt bụng mà còn thích giao tiếp nữa. Ngày nay, hơn bao giờ hết, phẩm chất thích giao tiếp quyết định phần nhiều những thành công trong cuộc đời, cũng như hạnh phúc riêng của con người.


  • * *

Về những con người hiền lành, tốt bụng và hung dữ, độc ác chúng ta đã nói xong. Bây giờ chúng ta hãy suy nghĩ về những phẩm chất khác của con người. Hãy nhìn xem: ai trong số những người quanh bạn mà bạn ghét nhất? Bạn ghét cái Sen vì cô bé này quá ranh mãnh, xảo quyệt, giả dối, ghét cậu Cam vì tính đểu giả và thích mách lẻo, ghét cậu Quế vì chẳng có lý do nào mà hắn ta rất tự cao tự đại, kiêu căng, khinh bỉ mọi người, ghét cái Thảo vì tính tham lam. Còn cái An thì hay đố kỵ, ghen tị quá đáng, v.v... và v.v.... Đủ rồi! Rất có thể bạn cũng ít nhiều có những “đức tính” ấy, nhưng dù sao bạn cũng chẳng hề thích thú những tính xấu ấy ở những người khác. Những người xung quanh nghĩ thế nào về cái Sen ranh mãnh, xảo quyệt và giả dối? Người ta tránh xa nó, không tin tưởng và thường hay đề phòng tính ranh mãnh, xảo quyệt và giả dối của nó. Nó không có những người bạn thật sự. Lớn lên, khi lấy chồng, cô ta cũng chắc gì có hạnh phúc, vì cuối cùng chồng và con cái cũng “đi guốc trong bụng” cô ta. Chắc gì cô sẽ một mực yêu thương những người thân của cô, mà chỉ lợi dụng họ để phục vụ cho mình. Cô Sen sẽ mãi mãi tìm cách bòn rút của chồng, khi thì chiếc nhẫn kim cương, khi thì trang phục mốt nhất đắt tiền, khi thì chiếc xe “Mercedes”, khi thì một cái gì khác nữa (tuỳ theo độ dày cộp chiếc ví tiền của phu quân). Đến cả con cái, khi họ đã già rồi, cô vẫn còn đòi quá đáng, đòi họ phải chăm sóc và quà cáp quá sức họ. Cô luôn miệng quở trách những người xung quanh dường như họ ít quan tâm đến cô ta, họ có lỗi điều gì đó với cô ta. Cô đòi mọi người còn phải cho nữa hay giúp đỡ cô ta cái gì đó nữa... Trong lúc đó, cô không hề nghĩ đến ai cả. Cô Sen cũng giống như con đỉa đói cả đời sống bám vào những người thân của mình. Chính những người đàn bà ranh mãnh và ích kỷ như vậy thường là những nhân vật trong các chuyện tiếu lâm về “mẹ chồng”, “mẹ vợ”, bởi vì họ không muốn chia sẻ với con dâu hay con rể sự quan tâm của con cái đối với họ. Họ thường tìm phần hơn chỉ cho mình và không chịu đựng được, khi một người khác lại được cái gì đó, và họ luôn luôn cho rằng những người khác cướp lấy của họ hay sống trên mồ hôi nước mắt của họ. Họ luôn luôn cảm thấy nhận được ít, nên cái tính ranh mãnh thường đi đôi với lòng tham. Họ ranh mãnh để làm gì? Để giành lấy, để nhận lấy một cái gì đó cho mình và chỉ cho mình mà thôi. Những người ranh mãnh có hạnh phúc được hay không? Tất nhiên có thể có, nhưng hạnh phúc của họ không trọn vẹn. Không trọn vẹn ở chỗ nào? Từ những điều nói trên, chắc chúng ta cũng hiểu rằng: quanh kẻ ranh mãnh là cả một sự trống trải về mặt tâm hồn, là sự thiếu vắng hay mất hẳn cảm tình, thiện ý hay lòng tin của người khác đối với anh ta. Bất kỳ một kẻ ranh mãnh nào sớm muộn cũng bộc lộ mình ra, và mọi người, thậm chí có gần gũi với anh ta đến mấy cũng tìm cách tránh xa anh ta và đối xử với anh ta một cách dè chừng. Kẻ ranh mãnh nhờ cái tính của anh ta như vậy nhiều khi vẫn giàu có hay có địa vị xã hội cao, nhưng người ta thường không có cảm tình với anh ta, và nếu phải hợp tác hay “kết bạn” với anh ta chăng nữa thì đó cũng chỉ là vụ lợi. Chơi với anh ta không phải là bạn bè hay đồng sự, mà là những người “cần thiết” giống tính anh ta, và khi nào có lợi thì họ sẵn sàng rời bỏ hay phản bội anh ta. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng tính ranh mãnh thường cũng khác nhau. Một mặt, khi người giở thói ranh mãnh để “ngáng chân” người khác thông minh hơn, hiểu rộng hơn, bày đặt quỷ kế để người đó không được giữ địa vị cao trong viện nghiên cứu, hoặc để phỗng tay trên của một người nào đó. Người đàn bà ranh mãnh thường bày mưu đặt kế để chia ly con gái mình với người yêu của con, mà đó là người chồng tốt, người cha tốt của những đứa con của con gái mình. Bày mưu đặt kế để vu khống, bôi nhọ người khác vì mục đích vụ lợi (nhiều khi là tội ác) của mình, để lừa dối hay tống tiền ai đó, v.v... Trong Kinh Thánh có viết: “Đừng vu khống người đồng loại của mình!”. Còn một mặt hoàn toàn khác nữa, một người biểu hiện tính ranh mãnh, láu lỉnh để bảo vệ mình, để thoát khỏi tình trạng khó xử, để giúp đỡ người bạn, để tránh sự tấn công của kẻ khác hay sự bất công. Nếu thiếu tính ranh mãnh, láu lỉnh với mục đích tự vệ thì khó sống được. Tính ranh mãnh, láu lỉnh như vậy là rất cần thiết và tôi hy vọng là bạn cũng có tính ấy. Bây giờ bạn đã hình dung được hạnh phúc của người ranh mãnh như thế nào. Và bạn hãy nghĩ xem: đây có phải là hạnh phúc của bạn hay không, cái hạnh phúc ấy có làm bạn hài lòng không hay không hài lòng lắm, hoặc có lẽ bạn cần một cái gì đó lớn hơn hay một cái gì khác hẳn? Nếu bạn nhận thấy mình có tính ranh mãnh thái quá, đến mức ranh ma, tinh quái, quỷ quyệt, tráo trở, bội tín, v.v... thì týp người như thế chắc không muốn gột bỏ cái tính đó đi. Không phải ngẫu nhiên có chuyện tiếu lâm sau:

- Này ông bạn, người ta đồn là ông có nhiều mưu ma chước quỷ lắm phải không? - Ừ, đúng, đúng thế, - ông kia khoái trá, vênh vang đáp, - nhưng thời buổi này sao ít người biết quý cái tài này quá?!

Tôi nghĩ rằng kẻ ranh mãnh luôn luôn rất hài lòng về mình, vì anh ta thường lừa được người khác hay lợi dụng họ, nên anh ta coi mình là thông minh hơn người. Nhưng, nên nhớ câu tục ngữ: “Có thể đánh lừa nhiều người, nhưng không thể đánh lừa được mọi người”. Nếu bạn hình dung rõ cái tương lai đang chờ đợi những người như anh ta, hoàn cảnh gia đình và người thân của anh ta, và sau khi đọc xong cuốn sách này mà bắt đầu suy nghĩ về những vấn đề đã nêu ra trong sách, thì chỉ riêng điều đó cũng đã tốt lắm rồi.

Để kết thúc phần này, tôi xin dẫn ra vài danh ngôn về tính ranh mãnh. Bạn hãy suy nghĩ xem bạn có đồng ý hay không với những câu sau đây, nếu không thì tại sao. Hãy giải thích quan điểm của bạn.

“Ranh mãnh chỉ là sự thiếu thốn trí tuệ: không thể đạt được mục đích của mình bằng con đường thẳng, nó cố đạt được bằng con đường vòng, gian trá, thủ đoạn, và khổ một nỗi là tính ranh manh chỉ giúp được có một lần, sau đó nó chỉ cản trở mà thôi”. - John Locke (1632 – 1704), nhà triết học Anh.

“Chẳng ai có thể ranh mãnh đến nỗi có thể giấu được tính này”. - John Locke.

“Ranh mãnh là nếp tư duy những người rất thiển cận, nó khác hẳn với trí tuệ mà bề ngoài thì có vẻ giống”. - Emmanuel Kant (1724 – 1804), nhà triết học Đức.

“Có thể ranh mãnh hơn người khác, nhưng không thể ranh mãnh hơn tất cả”. – Francois La Rochefoucauld (1613 – 1680), nhà văn Pháp.

“Thói quen thường hay giở trò ranh mãnh là dấu hiệu của cái trí tuệ hạn hẹp, và thường hay xảy ra chuyện khi một người phải giở trò ranh mãnh để che đầu thì lại hở đuôi”. - Francois La Rochefoucauld.

Bây giờ chúng ta nói về những người giản dị, chân thành, chất phác, hồn nhiên và cả tin.

“Giản dị là chỗ trú ẩn cuối cùng của thiên tài”. - A.S. Pushkin (1799-1837), thi hào Nga.

Giao tiếp thật dễ dàng và dễ chịu với những người giản dị, không kiểu cách, không cao ngạo, không giả dối hoặc không ranh mãnh. Họ không có những hành động đểu cáng với bạn. Trái lại, họ thường tỏ ra đồng cảm, thái độ chân thành và sẵn sàng giúp đỡ nhau. Mặt khác, họ thường hay trở thành nạn nhân của những kẻ lừa lọc, những kẻ ranh ma và quỷ quyệt. Tuy vậy, những hớ hênh đó thường cũng không dạy cho họ điều gì cả - họ lại rơi vào cảm bẫy nhiều lần nữa. Cho nên lý tưởng nhất là biết kết hợp tối ưu những phẩm chất, như sự ranh mãnh, láu lỉnh có chừng mực để tự vệ với tính cảnh giác. Không có những phẩm chất đó bạn sẽ giống như cô bé Mũ Đỏ quá cả tin đến nỗi bị con Sói Xám nuốt chửng như trong chuyện cổ tích mà ai cũng biết từ khi còn bé. Nhiều kẻ hay lợi dụng tính nhẹ dạ, cả tin và ngây thơ, nên người có những tính này rất khó sống. Tâm hồn họ trong sạch không bị vướng bẩn bởi tính độc ác và ghen tị, nhưng hầu như không bao giờ họ giàu có, vì không có khả năng về mặt kinh doanh. Chắc họ khó trở thành doanh gia, nhà chính trị, nhà tài phiệt, tướng lĩnh hay lãnh tụ, v.v.... bởi vì họ không có tính ranh mãnh và tài xoay xở cần thiết cho những nghề nghiệp nói trên. Nhưng nhiều khi họ lại đạt được những thành tích cao trong các lĩnh vực khác, như khoa học, nghệ thuật, văn hoá, giáo dục..., mặc dù trong các lĩnh vực này cũng như bất kỳ ở đâu đều có vô khối kẻ mưu mô và ranh mãnh. Sau đây là bằng chứng của điều vừa nói: “Tôi không phải là kẻ đểu giả, mà rất hiền lành. Người ta ngồi lên đầu tôi và tôi cứ phải chịu và làm mọi việc... Không thể đạt được điều gì bằng sự đểu giả. Mọi người sẽ xa lánh bạn. Còn tôi thì có những người bạn trung thành và tuyệt vời... Tôi không hề có người cạnh tranh. Cũng có thể là có, nhưng tôi không hề để ý đến họ, và tôi gạt họ ra khỏi cuộc đời tôi. Trong tình huống căng thẳng, tôi có một nhu cầu hoàn toàn ngược lại là vượt cao hơn và đứng trên những xích mích nhỏ nhen... Tôi không hề che giấu tính tự trọng của mình. Có thể nói là: tôi không bao giờ xin cấp trên một thứ gì cho mình cả. Không xin căn hộ, không xin tăng lương. Không hiểu cuộc đời tôi thế nào mà ngẫu nhiên những thứ đó đều tự đến với tôi. Nếu khi nào tôi cần cái gì đó, tôi đều tự kiếm ra được cả...” (trích báo “Người đoàn viên thanh niên Moskva” ra ngày 6 tháng 9 năm 2001). Ai viết những dòng này thế? Nữ nghệ sĩ điện ảnh xô-viết rất nổi tiếng Lyudmila Khityaeva, người đóng vai chính trong bộ phim “Ekaterina Voronina”, vai Darya trong phim: “Sông Đôn êm đềm” và nhiều phim khác nữa. Trái lại, những người hiền lành, tốt bụng, cởi mở, thật thà có nhiều bạn bè, được nhiều người sẵn sàng giúp đỡ. Tình bạn và hôn nhân của họ với những người có những đức tính tương tự thì dễ bền chặt và hạnh phúc.

Sống thuận hoà, Còn gì tốt hơn? Cãi nhau làm gì Hãy yêu mọi người! (Bài hát trẻ con Nga)

Vậy hãy nghĩ đi, bạn cần hạnh phúc nào, kiểu người ranh mãnh hay kiểu người chất phác. Nếu bạn vẫn chưa biết được mình ranh mãnh hay chất phác, thì hãy nghĩ cho kỹ xem điều gì xảy ra thường xuyên hơn: bạn lừa dối người khác, lợi dụng lòng tin và cảm tình của họ vào mục đích vụ lợi của mình, hay là để người khác lợi dụng, lừa dối hoặc giăng bẫy bạn. Cuộc sống dạy người quá nhẹ dạ và cả kẻ ranh mãnh hay quỷ quyệt - không phải ngẫu nhiên người ta nói: đừng đào hố bẫy kẻ khác, chính mình sẽ rơi vào đó. Một khi đã là nạn nhân của vụ lừa đảo, bịp bợm nào đó, dù sao người nhẹ dạ cũng rút được kinh nghiệm và dần dần trở nên thận trọng hơn. Nhưng khi đã có những kinh nghiệm sống nào đó rồi, mà vẫn cảm thấy mình còn quá cả tin, đến tận bây giờ bạn vẫn bị lừa dối hay bị lợi dụng vào mục đích vụ lợi của người khác, thì những điều nói sau đây sẽ rất có ích đối với bạn: 1) Khi một người ít quen biết (hay không đáng tin cậy) muốn bạn làm điều gì đó, bạn hãy đặt cho mình câu hỏi: tại sao anh ta lại muốn điều này, điều này đem lại gì cho anh ta? Cách phân tích như vậy nhiều khi giúp bạn tránh bị lừa dối hay bị mất mát cũng như thất vọng. 2) Đừng vội trả lời ngay, đừng vội đồng ý (hứa hẹn, cho phép). Hãy nói với anh ta: “Tôi vẫn chưa quyết định được (chưa hỏi ý kiến bạn bè, chưa suy nghĩ, chưa cân nhắc kỹ “đúng” hay “sai”, chưa có đủ thông tin, v.v. và v.v...), tôi sẽ trả lời anh (sẽ gọi điện, sẽ thông báo, sẽ nhắn lại...) vào ngày mai (sau ba ngày, tuần sau, một lúc nào đó). Phản ứng bất ngờ đó thay cho sự đồng ý ngay lập tức của bạn sẽ làm kẻ ranh mãnh phải dè chừng. Anh ta nghĩ rằng bạn đã nắm được ý nghĩ của anh ta và do đó, có thể lùi bước hay từ bỏ những đề nghị và dự định ranh mãnh của mình. 3) Nếu bạn hiểu rõ rằng người ta muốn lừa dối bạn, đồng ý thì bạn sẽ bị rầy rà, thì hãy nói với anh ta một cách dứt khoát và ngắn gọn (nhưng bình thản) rằng bạn không đồng ý (không cho, không đi, không nói, không cho mượn, không mời, v.v...). Và đừng có nghĩ mình là có lỗi, đừng thanh minh trước anh ta. Vì nếu tranh cãi hay đấu khẩu thì kết cuộc, có khi bên đúng sẽ yếu lý, mà bên thắng là kẻ già mồm. Cho nên hãy mười lần bình tĩnh nhắc đi nhắc lại chỉ một chữ “không” và tin chắc là mình đúng. Đừng có tranh cãi làm gì! Hãy để cho kẻ ranh mãnh và quỷ quyệt kia cảm thấy chính anh ta có lỗi chứ không phải bạn.

Nói chung, có lẽ bạn đã hiểu được rằng mọi sự là tốt nếu có chừng mực. Tất nhiên, làm người tốt bụng và không ranh mãnh thì tốt, nhưng, hình như, đôi khi mỗi người vẫn cần phải có cái dữ dằn và ranh mãnh phần nào, phải không bạn? Cũng như mọi khi, bây giờ tôi đưa ra những danh ngôn về đề tài nói trên của các bậc vĩ nhân các thời đại.

“Tính khiêm tốn có khi là giả tạo, nhưng tính chất phác thì không bao giờ”. - Jean Le Rond d’ Alamber (1717 – 1783), nhà toán học, nhà triết học, nhà khai sáng Pháp.

“Cần có nhiều tính hồn nhiên để sáng tạo nên cái vĩ đại”. - René Crevel (1900 – 1935), nhà văn Pháp.

“Đơn giản là dấu hiệu của chân lý”. - Phương ngôn cổ đại.

“Đừng làm ra vẻ gì hết - giản dị chính là dấu hiệu của thiên tài”. - Karl Bernet (1786 – 1837), nhà thần bí và truyền đạo Pháp.

“Đơn giản chính là nhận thức được nhân phẩm chất của mình”. - P. Bouast (1765 – 1824), nhà từ vựng học Pháp.

“Giản dị là điều khó nhất trên thế giới: đây là cực điểm của kinh nghiệm và nỗ lực cuối cùng của thiên tài”. - George Sand (Aurore Dupin) (1804 – 1876), nữ văn sĩ Pháp.

“Cái tuyệt vời nhất trong tính cách, điệu bộ, phong cách, trong tất cả mọi thứ là sự giản dị”. - Henry Longfellow (1807 – 1882), nhà thơ Mỹ.

“Tính giản dị làm cho cuộc sống không chỉ dễ chịu hơn mà còn... trong sạch và tuyệt vời hơn”. - Michel de Montaigne (1553 – 1592), nhà triết học-nhân văn và nhà văn Pháp.

“Thà làm người giản dị và chân thật còn hơn làm kẻ thông minh và giả dối”. - Sophocle (497 – 406 trước CN), nhà soạn kịch Hy Lạp cổ đại.

“Những người nội tâm mạnh bao giờ cũng giản dị”. - Lev Tolstoi (1828 – 1910), văn hào Nga.

  • * *

Con bò sữa của lão hàng xóm ngoẻo rồi! Thế vẫn chưa ăn thua gì,

nhưng mình cũng đã thấy khoái!

Còn có rất nhiều nét tính cách khác của con người, ngoài những nét kể trên, nhưng không thể nào nói được hết trong khuôn khổ cuốn sách này, nên tôi chỉ đề cập đến một vài nét tính cách nguy hiểm nhất, cũng như có ích nhất. Đúng, tôi muốn nói chính những nét tính cách nguy hiểm hay có ích cho cuộc đời và cho hạnh phúc của bạn. Đó là những tính cách nào? Trước hết, tính cách nguy hiểm là lòng ghen tị (thường nó đi đôi với tính tham lam) và tính cách có ích là tính thích giao tiếp và dễ tiếp xúc. Lòng ghen tị là cái gì? Đó chính là con mọt cả đời đục khoét người hay ghen tị, không cho người ấy ăn ngon, ngủ yên và sống thanh bình. Lòng ghen tị đầu độc cuộc sống và phá hoại sức khỏe không kém gì tính độc ác “kinh niên”. Các nhà thông thái của mọi thời đại và mọi dân tộc đã nói gì về lòng ghen tị?

“Như gỉ ăn mòn sắt, nhân cách riêng của người hay ghen tị ăn mòn chính họ”. - Antisthène ở thành Athènes (435 – 370), nhà triêt học Hy Lạp cổ đại.

“Lòng ghen tị không bao giờ có ngày hội cả”. - Francois Bacon (1561 – 1626), nhà khoa học-nhân văn Anh.

“Chẳng có gì xoa dịu được kẻ ghen tị”. - L. Vovenarg (1715 – 1747), nhà văn Pháp.

“Con người thường ít biết thưởng thức những gì có trong tay mình, mà lại đau buồn nhiều hơn vì những thứ không có trong tay”. - Vissarion Belinsky (1811 – 1848), nhà phê bình văn học, nhà triết học và nhà chính luận Nga.

“Trong tất cả những dục vọng, lòng ghen tị là đáng ghê tởm nhất. Đi dưới lá cờ của lòng ghen tị là sự căm thù, sự phản bội và âm mưu”. - Claude Helvétius (1715 – 1771), nhà triết học Pháp.

“Kẻ ghen tị chết không phải một lần, mà cứ bao nhiêu lần nghe lời khen đối thủ của hắn thì hắn chết bấy nhiêu lần”. - Baltasar Gracián (1601 – 1658), nhà văn và nhà triết học Tây Ban Nha.

“Người hay ghen tị gây cho chính mình những đau khổ y hệt như mình là kẻ thù”. - Démocrite (sinh 460 trước CN – ?), nhà triết học Hy Lạp cổ đại.

“Nếu không muốn đau khổ thì đừng ghen tị”. - Kabus (thế kỷ thứ XI), nhà thơ Tadjikistan.

“Kẻ hay ghen tị chính là kẻ thù của bản thân hắn, bởi vì hắn đau khổ do cái ác chính hắn tạo ra”. – Charles Montesquieu (1689 – 1755), nhà triết học và hoạt động xã hội Pháp.

Có thể khuyên bạn điều gì đây khi bạn tiếp chạm với tính ghen tị? Có hai trường hợp: 1) hoặc bạn biết chính bản thân thân mình cũng hay ghen tị; 2) hoặc bạn đau khổ vì lòng ghen tị của người bạn hay người thân của mình (thậm chí có khi người mẹ ghen tị với con gái, người bố ghen tị với con trai!). 1) Nếu bạn thấy mình hay ghen tị với người khác vì nhiều lý do khác nhau, thì phải chấm dứt ngay lập tức bằng bất cứ giá nào, nếu không bạn sẽ không thể nào có hạnh phúc được! Bạn sẽ đau khổ suốt đời mà không hiểu được nguyên nhân của những nỗi đau khổ ấy và kết tội bất kỳ ai khác đã gây nên, chứ không phải bản thân. Bạn không bao giờ có hạnh phúc được cho dù số phận có ban cho bạn bao nhiêu món quà quý báu chăng nữa. Bạn không ghen tị với Nữ Hoàng Anh hay với quốc vương Ả rập chứ? Thế mà ghen tị với họ còn hợp lý (vì họ giàu có và quyền quý) hơn là ghen tị với bà hàng xóm. Như thế là lòng ghen tị chẳng có một lôgich nào, ngoài những tình cảm cực kỳ vô lý. Thế thì bạn hãy thử tìm cách trị nó, khuất phục nó bằng lôgich. Nếu làm được điều này thì bạn sẽ cảm thấy ngay cuộc sống của bạn trở nên nhẹ nhàng biết bao. Tất nhiên, dứt bỏ lòng ghen tị là rất khó, nhưng nếu không thì bạn sẽ làm hỏng cả đời mình. Bạn sẽ đẩy bạn bè và người thân xa mình, làm cuộc sống gia đình có nguy cơ tan vỡ, sẽ phải suốt đời chữa các bệnh gan (tim, dạ dày...) mạn tính, trong khi đáng lẽ phải chữa trước hết tính cách và tâm lý của mình. “Chiến thắng bản thân là chiến thắng tất cả!.. Tôi hài lòng về cuộc sống của tôi, tôi có hạnh phúc với vợ và các con của tôi”. - Sergey Bubka, vận động viên thể thao nổi tiếng. Chẳng lẽ bạn lại ghen tị với cô Ninka, người hay mặc cái áo lông thú đắt tiền? Tất nhiên, bạn có áo ấm để mặc rồi, chẳng lẽ giữa mùa đông băng giá mà bạn đi trần ra đường à? Hơn nữa, có thể là bạn còn ăn mặc lịch sự và thanh nhã hơn cô ta chăng? Hoàn toàn có thể là như vậy. Vả lại, người văn minh từ lâu đã chuyển lên cấp độ tư duy thứ sáu có tính chất toàn cầu, bảo vệ sinh thái môi trường. Họ đã hiểu rằng thật là mang tội ác, dã man và vô nhân đạo khi giết hại súc vật vì thói đua đòi của những các cô, các bà ích kỷ, trong khi loài người đã làm ra được lông thú nhân tạo tuyệt vời. Họ đã hiễu được rằng mỗi người phụ nữ mang trên mình lông thú đều tham gia vào việc cố sát, cô ta đã làm tăng lên nỗi đau khổ và tội ác trên Trái Đất này. Thế bạn không nhớ là trong đạo Phật có giới cấm “Không được sát sinh”, còn trong đạo Chúa có giới cấm “Không giết hại” ư? Giới này đâu có phải chỉ nói: không giết con người mà thôi. Chính văn hào L.Tolstoi cũng giải thích điều đó: “Giới cấm “Không giết hại” nói không chỉ về con người, mà cả về mọi sinh linh. Giới cấm đó đã ghi trước tiên vào tim con người, sau đó mới khắc vào bia đá trên núi Sinai”. Còn nếu cô Ninka có cái cấp độ tư duy thô thiển của thời đại đồ đá, khi con người mặc lông thú và ăn thịt sống, thì đó là vấn đề riêng của cô ấy. Càng xấu cho cô ấy, vì cấp độ tư duy của cô quá thấp. May thay, cấp độ tư duy của bạn cao hơn nhiều. Có thể là bạn ghen tị với cậu Nam, bởi vì..., với cậu Hưng, bởi vì... v.v và v.v... Chẳng lẽ đọc cuốn sách này bạn vẫn chưa hiểu rằng mỗi một người đều là một cá thể riêng biệt, độc đáo. Bạn là bạn. Họ là họ. Mỗi người trong số họ đều có nhà cửa, quần áo của mình, tài năng và những nét tính cách của mình, đường công danh, đường đời, số phận và hạnh phúc của mình. Và giống như vậy, bạn cũng có những thứ nói trên riêng của bạn. Thế thì bạn có liên quan gì đến tài sản của họ, tài năng của họ, thành công và thất bại của họ? Hoàn toàn chẳng có liên quan gì đến cả! Thế thì hãy làm công việc của mình và gắng đạt được những thành công riêng của bản thân và đừng bao giờ so sánh mình với những người khác! Fridrich Nietzsche (1844 – 1900), nhà triết học và nhà thơ Đức, đã nói rất đúng: “Phần đông người ta quá ngốc để có thể bảo đảm cái lợi cho bản thân... ”. Chẳng lẽ bạn lại muốn ở trong số những người ngốc này ư? Có thể bạn sẽ nói: “Sao lại thế, tôi không ngu hơn, không tồi hơn, không... thậm chí còn giỏi hơn họ, mà sao lương họ cao hơn, biệt thự của họ rộng hơn, xe hơi của họ đắt tiền hơn, và ...”. Trong trường hợp đó dân Nga thường nói: “Trong túi lưới của người hàng xóm thì củ khoai tây cũng to hơn”. Đúng thế, người ta có thể ghen tị với bất kỳ điều gì, thậm chí cả với củ khoai tây trong túi lưới bà hàng xóm. Nếu bạn nói như vậy thì có nghĩa là bạn hoàn toàn không hiểu gì những điều trong cuốn sách này cũng như trong cuộc sống. Bởi vì ở người hàng xóm (người đồng nghiệp, người họ hàng) mọi thứ đều hoàn toàn khác, không giống như của bạn. Tất cả mọi thứ từ tên họ, thân thể riêng của người ấy (chứ không phải của bạn), từ tập hợp những nét tính cách riêng (hãy nhớ lại biểu đồ tâm lý!), từ tài năng và khả năng cho đến cha mẹ, di truyền, sức khỏe và những hoàn cảnh sinh sống của người ấy đều khác. Nói tóm lại, mỗi người có số phận riêng. Thế thì tại sao bạn lại muốn mọi thứ (hay nhiều thứ) phải giống như của người ấy. Trong trường hợp đó, bạn và anh (chị) kia không phải là những con người khác nhau với những số phận khác nhau, mà chỉ là những cái đinh ốc giống nhau trong một dây chuyền sản xuất. Vì vậy, hãy bình tĩnh lại và hãy lo cho bản thân mình, chứ không phải lo cho người hàng xóm. Người ngu thì ghen tị, còn người khôn thì lo xây đắp số phận và hạnh phúc của riêng mình. 2) Bạn cảm thấy người thân hay bạn bè ghen tị bạn. Có thể khuyên bạn gì trong trường hợp này? Nếu người bạn của bạn có tính ghen tị, và bạn kịp thời hiểu được điều đó, thì thứ nhất, đừng vào hùa với anh ta, đừng có bàn với anh ta những thành tích hay sự giàu có của người khác, đừng có thổi phồng những buồn phiền của anh ta về điều ở người khác mọi sự đều tốt đẹp hơn anh ta nhiều, đừng có hâm nóng lên lòng ghen tị mà trái lại hãy cố trung hoà nó đi. Hãy hướng người bạn của mình bàn việc giải quyết những vấn đề riêng của anh ta, chứ không phải bàn việc người khác và so sánh mình với người thành đạt hơn. Tất nhiên, không nên lên mặt dạy đời, mà phải nhiều lần chân thành và thân thiết nói chuyện với anh ta. Có thể anh ta sẽ dần dần thay đổi và tình bạn sẽ tiếp tục. Thậm chí, đến một lúc nào đó anh ta sẽ cám ơn bạn. Còn nếu người bạn có thói ghen tị nặng và không có lý lẽ nào tác động đến anh ta được, và lòng ghen tị của anh ta đã mang tính chất bệnh lý rồi, thì hãy rời anh ta thật nhanh và thật xa, nhưng cố đừng làm anh ta giận và có ý định trả thù. Lúc này nếu bạn có chút ranh mãnh thì cũng tốt. Viện những cớ hợp lý mà từ chối gặp gỡ anh ta, từ chối cùng đi chơi hay những việc khác và dần dần (nhưng vẫn cố làm nhanh) cắt đứt quan hệ với người đó. Cắt đứt là vì người đó ghen tị mọi người không trừ một ai, kể cả bạn, tuy không nói ra điều này. Với bạn thì anh ta nói người khác, nhưng với người khác anh ta lại bày tỏ sự ghen tị với bạn. Người hay ghen tị sẵn sàng làm bất cứ hành động bần tiện, xấu xa hay phản bội nào. Nếu bạn tiếp tục chơi với anh ta thì hãy coi chừng: một lúc nào đó, anh ta sẽ làm cái chuyện mà bạn không thể ngờ được. Vì ghen tị, thậm chí anh ta có thể phá huỷ hạnh phúc của bạn đấy! Nếu người họ hàng lớn tuổi hơn bạn mà ghen tị thì đành chịu vậy thôi. Bạn không thể giáo dục hay dạy dỗ người đó, mà có làm điều đó cũng không được. Chỉ có cách là phải chú ý đến cái đặc tính của anh ta và hãy cố ít tiếp xúc với người ấy hơn (vì cắt đứt hẳn với người này thì khó). Trong trường hợp này, một chút ranh mãnh cũng không hại gì - bạn hãy nghĩ ra những cớ hợp lý để ít tiếp xúc với người ấy hơn, nhất là trong phạm vi gia đình (trong nhóm đông người thì có thể gặp nhau, nhưng nên tránh xa người ấy ra). Từ xưa đến nay mọi người đều biết về tai hại của tính ghen tị. Tất cả các tôn giáo trên thế giới đều dạy về điều này. Không phải ngẫu nhiên một trong những giới của Đức Chúa Jesus có nói: “Đừng có ham muốn nhà của người khác, đừng thèm muốn vợ của người khác, các nam nữ nô lệ của người khác, con bò và con lừa của người khác, và nói chung là đừng ham muốn bất cứ thứ gì của người khác”. Tất nhiên, trong thời buổi này, người ta có thể ghen tị với người khác về cái biệt thự ba tầng trong vùng của “các ông lớn” hay về chiếc ô tô “đời mới” mốt nhất, về cái dây chuyền vàng to bự đeo cổ hay những cái gì khác nữa, nhưng bản chất của vấn đề vẫn thế thôi. Phải không bạn?! Đôi khi người ta nói về cái gọi là ghen tị “tích cực”, nhưng tôi thấy rằng ghen tị vẫn là ghen tị, chứ chẳng có cái ghen tị nào “tích cực” cả. Nếu bạn cảm thấy vui mừng khi người khác có nhiều hơn bạn hoặc có cái gì đó rất tốt mà bạn không có nhưng cũng rất muốn có, thì chẳng lẽ lại gọi đây là lòng ghen tị “tích cực”? Cái này được gọi bắng một từ khác.

Nói với các bậc cha mẹ, ông bà

Quý vị thân mến! Chắc là quý vị không muốn con cháu đau khổ suốt đời, phải không? Nhưng nếu các vị kém dạy dỗ chúng để chúng có thói ghen tị, chính vì vậy chúng sẽ đau khổ suốt đời. Điều gì có thể làm cho con người trở thành người hay ghen tị được? Trước hết, sự so sánh thường xuyên con cháu các vị với những đứa trẻ khác – các bạn cùng lớp, trẻ con của những người quen và họ hàng, với bạn bè chúng và thậm chí với các anh chị em ruột của chúng, sẽ tạo điều kiện cho bản tính ấy phát triển. Nên các vị đừng bao giờ so sánh con cháu các vị với những đứa trẻ khác. Đừng nói với nó những câu kiểu như: “Con lại bị điểm hai môn đại số rồi, thế mà cậu Việt thì...”; “Chẳng lẽ con không thể tiến bộ môn văn được hay sao? Cứ nhìn xem cái Hương kìa, nó bao giờ cũng được toàn điểm năm” (là điểm cao nhất - ND); “Con lại không đi mua bánh mì, mẹ đã nhờ con đi mua rồi mà con lại quên, còn em gái con có bao giờ quên việc mẹ giao đâu”, v.v. và v.v.... Các vị được gì khi thường xuyên dí vào mũi con cháu những tấm gương “sáng” kiểu như vậy? Hình như các vị nghĩ là các vị đang giáo dục trẻ và gieo cho nó những tính cách tốt chăng? Không phải như vậy đâu! Các vị chỉ đạt được một điều là con cháu các vị bắt đầu âm thầm ghen ghét tất cả những đứa mà các vị lấy ra làm gương cho nó. Bằng cách này các vị đã đẩy xa nó khỏi bạn bè, các bạn cùng lờp và anh chị em ruột của nó. Sự cạnh tranh bắt buộc đã dẫn đến lòng ghen tị, vì thế đứa trẻ sẽ bị giày vò và không tạo được quan hệ bình thường với những người khác. Tính thiếu cởi mở và không biết giao tiếp này về sau rất có thể sẽ làm hỏng cả cuộc đời của nó! Các vị sẽ hỏi, thế những tấm gương “sáng” thì để làm gì? Tấm gương sáng cho con cháu của các vị phải là chính chúng nó. Các vị hãy nói với chúng đại khái như thế này: “Con (cháu) lại bị điểm hai môn đại số rồi à? Con nhớ không, tháng trước con còn được điểm bốn (điểm tốt - ND) cơ mà?! Thế mới là tốt! Nào hãy cố gắng lần nữa xem!” hay là: “Hôm nay cả nhà đành phải ăn không có bánh mì vậy, nào ngày mai con (cháu) đừng có quên mua bánh mì nhé! Hãy gắng làm người lớn xem nào, phải có trách nhiệm chứ! Con (cháu) hiểu chưa? Con (cháu) đã từng mấy lần đi mua thức ăn ở cửa hàng rồi mà. Nếu cố gắng thì có thể mua được cả. Còn chỉ mua mỗi bánh mì không thì chuyện rất dễ”. Các vị hãy nhớ rằng con cháu các vị không thể nào cùng một lúc làm tốt các việc nhà như cô chị của nó, lại vừa học giỏi môn đại số như cậu Việt, vừa học giỏi môn văn như cô bé Hương, lại còn học chơi được đàn dương cầm như cậu bé Hoàng hàng xóm, v.v... Chẳng lẽ các vị muốn nó chất chứa trong mình tất cả những phẩm chất tốt đẹp của các bạn cùng lớp và con cái người quen các vị cộng lại ư? Đừng có đòi hỏi ở con người điều không thể làm được! Hãy nhớ rằng nếu các vị đưa ra cho nó những đòi hỏi không thể thực hiện được thì nó dễ chán đời, rồi không chịu làm gì hết, từ chối thực hiện bất cứ yêu cầu nào các vị đưa ra. Nó có thể trở nên uể oải, thụ động và gắt gỏng. Lúc đó, cả các vị, cả nó đều không thể hiểu được nguyên nhân dẫn đến chuyện này. Mà thực ra nguyên nhân là ở chỗ các vị đã đòi hỏi ở một người chưa trưởng thành những điều chỉ có thiên tài mới làm nổi.

  • * *

Cuối cùng, chúng ta hãy bàn về phẩm chất như tính cởi mở, thích giao tiếp và dễ tiếp xúc. Dễ hiểu là đặc tính con người thực ra còn nhiều hơn so với những điều đã đưa ra và phân tích trong cuốn sách này. Nhưng không thể nói mãi được về các tính cách ấy. Tôi cho rằng đọc đến đoạn này, bạn đã hiểu được cái phương pháp của tôi: phải phân tích đồng thời hai tính cách trái ngược nhau và dự đoán xem tính cách này hay tính cách kia sẽ ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống và số phận tương lai của con người. Thế là xong, làm việc này cũng tương đối dễ, phải không các bạn? Nhất là khi phân tích số phận của người người thân, hay người quen của bạn có những nét tính cách nổi bật. Tất nhiên, cũng không nên quên rằng số phận do tổng thể những nét tính cách và hoàn cảnh sinh sống của con người quyết định. Chúng ta bắt đầu từ tính thích giao tiếp. Chắc các bạn đều đồng ý với tôi, đây là phẩm chất rất cần thiết trong cuộc sống của chúng ta, nhất là trong thời gian gần đây nó càng trở nên cần thiết hơn. Nếu như trước đây nó chỉ cần ở những người làm các nghề, như nhà giáo, nhà báo, bác sĩ, v. v... thì ngày nay, khi nền kinh tế thị trường phát triển, phải kể thêm những người làm đại lý, người kinh doanh bất động sản, nhân viên bán hàng hay làm bảo hiểm, người buôn bán chứng khoán, người chuyên lo về quảng cáo, người thay mặt công ty giao thiệp với giới truyền thông và những người khác nữa. Khi xem trên Internet dữ liệu về chỗ làm còn khuyết người hay các tạp chí chuyên đề về nhu cầu nhân công, chúng ta thấy rằng thông thường phẩm chất đầu tiên hay hàng đầu mà người ta đòi hỏi ở những người đi tìm việc là tính thích giao tiếp, cởi mở, tài ăn nói và thuyết phục. Thế mà chẳng có trường học nào dạy những môn này cả. Nếu một người không biết cách giao tiếp thì dù trình độ nghề nghiệp của họ có cao đến mấy, anh ta cũng khó có thể đạt được thành tích trong trong công tác của mình, đó là chưa nói đến việc anh ta cũng khó có được sự thông hiểu nhau trong gia đình riêng. Điều này giải thích tại sao trước đây tôi viết một cuốn sách về vấn đề nói năng, giao tiếp (“Trường học hùng biện”, tiếng Nga, NXB AIF-Print, 2002) và chỉ bây giờ khi viết cuốn sách này về hạnh phúc, tôi mới chuyển sang đề tài khác. Thật khó làm một người hạnh phúc, khi người đó không biết nói về điều anh ta quan tâm, lo lắng, khó trình bày những ý nghĩ của mình, không biết cách lưu ý người nghe về điều quan trọng, không biết diễn đạt cho người thân những ý tưởng của mình. Rõ ràng là người cởi mở thường do bản năng, tuy không trải qua bất kỳ lớp học nào và không đọc bất kỳ cuốn sách nào nói về vấn đề này, nhưng họ đã biết giao tiếp, dễ tiếp xúc, không rụt rè quá đáng, dễ tìm được bạn bè, dễ tham gia vào các hoạt động thú vị và dễ có được những mối quen biết có ích. Nhưng đáng tiếc, những người như vậy rất hiếm. Thường thì những người thiếu cởi mở, khó tiếp xúc, rất đau khổ về cái nhược điểm này của mình, ngoại trừ những người phiến diện, tự hài lòng về bản thân như đã nói trước đây. Những người như vậy chỉ cần cái computer, hay chai rượu, hay thư viện khoa học, bộ sưu tập tranh, ma tuý, v.v... là đủ. Vì vậy họ không chú ý ai hết và cái gì hết quanh mình. May thay, những người như vậy cũng ít. Phần đông chúng ta đều cần có giao tiếp, hiểu biết, thông cảm, sự giúp đỡ... Chắc là các bậc cha mẹ chẳng ai lại muốn con mình lớn lên thành người lầm lì, dù rằng sự cởi mở thái quá cũng có thể nguy hiểm, vì một tên bạo dâm hay ác độc nào đó rất dễ lừa đứa trẻ ngây thơ, quá cởi mở. Nhưng đối với bất kỳ người nào, nhất là trẻ con, cuộc sống nói chung là nguy hiểm, vì thế mới có thành ngữ: “Sống rất là có hại”. Dù thế, mọi người đều biết rằng những người cởi mở thường đạt được mục đích đặt ra trong cuộc sống, dễ dành được cảm tình của những người xung quanh hơn, có nhiều bạn bè và như vậy là được giúp đỡ nhiều hơn. Mặc dù họ dễ bị người khác lừa dối hay chơi xỏ hơn, nhưng có những yếu tố khác, như kinh nghiệm sống, linh cảm, khả năng biết phân tích, nhìn thấy trước sự việc, khả năng hiểu được người khác và động cơ hành động của họ có thể giúp được những người cởi mở. Mà những phẩm chất hữu ich này chỉ có được qua quá trình giao tiếp. Ở người thiếu cởi mở thì những phẩm chất có lợi này ít hơn nhiều và có thể nói là không có.

Nói với các bậc cha mẹ, ông bà

Các vị hỏi tôi, làm thế nào vượt qua được tính nhút nhát ngại ngùng, làm thế nào cho con cháu và thậm chí bản thân các vị nữa trở nên cởi mở hơn? Đừng nên vội vàng làm gì, điều này sẽ được nói riêng ở chương sau. Nhưng trước khi chuyển đến chương này và bắt đầu sửa mình, nên nhớ rằng kiểu tâm lý của con người phần nhiều là do bẩm sinh mà ra, không nên và không thể thay đổi đột ngột được. Con người dần dần thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh, nhờ tiếp xúc với những người xung quanh trong toàn bộ cuộc đời. Con người thay đổi một cách đáng kể, nhưng thường thì tương đối chậm, mà cái kiểu tâm lý của con người dù sao vẫn giữ lại đến tận cuối đời. Tôi nhớ lại một người phụ nữ trẻ có dáng vẻ “sư tử cái” (ngôn ngữ dân gian Nga có nghĩa là người đàn bà đẹp mà có vẻ ác – ND), đã từng dự một khoá huấn luyện do tôi hướng dẫn. Cô ta ăn mặc như một người mẫu trên sàn diễn, chân này vắt lên chân kia một cách khêu gợi, tay cầm điếu thuốc hút rất điệu, miệng nói cười và cư xử ra vẻ rất tự tin, nhưng... tôi có cảm giác là có một nỗi buồn và bối rối nào đó ẩn sâu trong đôi mắt cô. Tôi không phải là bác sĩ, thế mà đến cuối khoá huấn luyện, người phụ nữ này đã xin gặp riêng tôi và hỏi: “Tại sao trong khi cuộc sống riêng cũng như công việc của tôi mọi sự đều tốt đẹp cả, nhưng tôi lại bị chứng mất ngủ, căng thẳng thần kinh và những cơn chấn động tâm lý?”. Tôi đã cùng với cô thử phân tích để tìm hiểu nguyên nhân, thì hoá ra cô... đã tự phản mình, đã cố đột ngột vượt ra khỏi cái kiểu tâm lý của mình. Chuyện xảy ra như thế nào? Sau khi tốt nghiệp đại học và có được một nghề nghiệp tốt, cô bắt đầu đi tìm việc. Nhưng cái tính nhút nhát quá mức, không biết giao tiếp và vụng về trong khi cư xử với người “khác lạ” đã gây nhiều trở ngại cho cô. Khi đó, cô quyết định liều một phen: chỉ trong vòng một ngày cô ta đã thay đổi hẳn vẻ ngoài (image) của cô, từ quần áo, phong cách ăn nói, ứng xử và bắt đầu hút thuốc. Cô cho rằng với vẻ ngoài đó cô sẽ thích hợp hơn để kiếm được việc ở một công ty nào đó, nơi người ta coi trọng không chỉ trình độ chuyên nghiệp mà còn cả vẻ “ngang tàng” phần nào nữa. Cô đã tìm được việc, nhưng không thể thoát ra khỏi cái vẻ ngoài hoàn toàn xa lạ với mình. Vì người ta đã nhận cô vào làm việc với cái vẻ ngoài như vậy và dồng nghiệp đã coi cô là người đúng như vậy. Cô tỏ ra là một diễn viên có tài, nhưng ... chẳng có một sự phản bội nào (hơn nữa là sự phản bội chính mình) mà không để lại hậu quả cả. Cái vẻ ngoài, dáng điệu giả tạo này làm cô kinh tởm, thế mà cô buộc phải sống trong cái vỏ bọc đó hết ngày này qua ngày khác, hết tháng này qua tháng nọ. Một con người đòi ngay lập tức nhảy ra khỏi cái kiểu tâm lý của mình và khoác vào mình thực ra là cuộc sống của người khác - đó chính là nguyên nhân của những cơn chấn động tâm lý của cô. Tôi có thể khuyên được gì cho người tự dồn mình vào bế tắc như thế? Bởi vì ở đây không thể khuyên cô phải bỏ việc làm có lương cao, hơn nữa lại là việc làm đúng với nghề nghiệp của cô. Nên tôi đã khuyên người phụ nữ trẻ này như sau: hãy quay lại cái kiểu tâm lý ban đầu của cô (được phần nào tốt phần ấy, nhưng chắc là không thể quay lại hoàn toàn được) một cách chậm chạp, dần dần, từng bước một, cố làm sao để đồng nghiệp không thể nhận ra. Hàng ngày có thể hút ít thuốc hơn và cuối cùng tuyên bô dứt khoát với đồng nghiệp: “Thế là hết, từ ngày mai trở đi tôi bỏ thuốc”, thậm chí có thể cá cược là cô nhất định sẽ thực hiện được lời hứa của mình. Và làm đúng như vậy, vứt bỏ ngay những điều thuốc đáng ghét kia. Điều chắc chắn là cái sức mạnh ý chí này sẽ làm cho đồng nghiệp của cô kính trọng cô hơn và thậm chí những người khác quá nhu nhược còn ghen tị với cô. Ngoài ra, thỉnh thoảng cô phải mặc những bộ đồ ít khêu gợi hơn, và dần dần thay đổi trang phục kiểu bình thường hơn, tương xứng với tâm trạng và sở thích của cô. Phải thay đổi cả cách đi đứng, giọng nói và phong cách giao tiếp nữa, v.v... Nói tóm lại là phải trả lại “cái tôi” của mình cho chính mình, phải dung hoà giữa cái bên ngoài và cái bên trong của mình. Nhưng thời gian mang cái vẻ “ngang tàng” như vậy chắc chắn cũng đã để lại dấu vết trong cô. Vẻ “ngang tàng” này là một kinh nghiệm sống mới (tuy đau khổ), là cái vẻ ngoài mới (tuy không phải của mình). Người phụ nữ này cũng khó trở nên giống hoàn toàn như trước đây, nhưng chắc chắn cô đã học tính quyết đoán, biết cách giao tiếp và bảo vệ ý kiến của mình - đó chính là những phẩm chất có lợi và cần thiết trong cuộc đời. Tôi kể câu chuyện trên như một ví dụ đề làm gì? Để các bậc cha mẹ, ông bà không phạm phải sai lầm và không bắt con cháu mình, những đứa trẻ vẫn chưa hình thành vững chắc về mặt tâm lý, đi lại con đường chông gai và nguy hiểm mà người phụ nữ nói trên đã trải qua. Cô ta là người lớn mà vẫn bị chấn động tâm thần, huống hồ con cháu của các vị là những đứa trẻ chưa trưởng thành. Các vị nên nhớ rằng phải thay đổi từ từ thói quen (có nghĩa là một phần nào đó thay đổi tính cách) của con cháu. Đừng đặt ra cho chúng những nhiệm vụ quá to lớn, đừng đòi hỏi điều không thể làm được là phải thay đổi ngay, phải lập tức trở thành một con người khác. Hãy đi dần dần, từng bước một, hãy đặt ra những nhiệm vụ cụ thể và dễ làm, khi đó các vị sẽ có ít lý do để bực tức hay va chạm với con cháu và có nhiều lý do để vui mừng. Người xưa nói: “Ai đi chậm người ấy đi được xa” là hoàn toàn thích hợp.

  • * *

Nào, bây giờ khi bạn đã hình dung được tương lai hay hạnh phúc nào đón chờ một người với tính cách này hay tính cách khác, bạn hãy suy nghĩ xem cái tương lai hay hạnh phúc đó có làm bạn hài lòng hay không. Bạn có thể làm việc này cùng với cha mẹ mình nếu bạn tin tưởng họ và bạn tin chắc là họ sẽ hiểu bạn, tuy nhiên, điều đáng tiếc là ít khi bố mẹ và con cái hiểu nhau. Nếu tương lai hay hạnh phúc đó không hoàn toàn hợp với bạn thì bạn hãy bắt đầu sửa mình và cố gắng dần dần thay đổi mình một chút ít và tiến gần tới cái hạnh phúc lý tưởng của bạn. Hãy làm điều đó bằng chính đôi tay của bạn. Để bắt đầu, bạn hãy áp dụng những lời khuyên mà sẽ tìm thấy trong chương sau. Chúc bạn thành công!

Chương 6 LÀM THẾ NÀO TẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM MẠNH VÀ KHẮC PHỤC NHỮNG ĐIỂM YẾU CỦA MÌNH? XÂY DỰNG HẠNH PHÚC CỦA MÌNH, LÀM VIỆC CHO TƯƠNG LAI.

Tâm hồn phải làm việc cả ngày liền đêm, cả ngày liền đêm...- Nikolai Zabolotsky, nhà thơ Nga

Có công mài sắc có ngày nên kim. - Tục ngữ Việt Nam.

“Khi một người chẳng biết cho thuyền đi về hướng nào, thì đối với anh ta, chẳng có ngọn gió nào là thổi xuôi chiều cả”. - Seneca (4 trước CN – 65 sau CN), nhà văn và nhà triết học La Mã cổ đại.

Khi đã lập xong biểu đồ tâm lý của mình và suy nghĩ về nó, bạn phát hiện ra một vài nét tính cách làm bạn không thích và chúng có thể ngăn cản bạn xây dựng cái hạnh phúc mà bạn cho là hấp dẫn nhất, thì bạn thân mến ơi, phải tu dưỡng, rèn luyện mình thôi! Tính cách con người có rất nhiều, nhưng trong sách này chúng ta chỉ thử bàn đến mấy tính cách mà thôi. Vì để có thể dạy con người rèn luyện tất cả những nét tính cách thì một chục cuốn sách như thế này cũng không đủ. Nếu bạn không thích những phẩm chất ghê tởm như tính hung dữ, độc ác, ghen tị, nhát gan, thô bỉ, nhẫn tâm, quỷ quyệt, tham lam, trắng trợn, ba hoa, càn rỡ, v.v... thì bạn vẫn có thể tự phân tích và nhận thức một cách lôgich về những tính cách này, và nếu muốn có thể tự đấu tranh để khắc phục chúng. Mặt khác, nếu không biết cách ăn nói, rụt rè quá đáng, không biết cách giao tiếp và ứng xử trong những tình huống va chạm, không biết chống lại ảnh hưởng có hại của người khác, và nói chung không vượt qua được những trở ngại này con người sẽ mất mát rất nhiều trong cuộc sống. Cho nên tôi sẽ tiếp tục giúp bạn hiểu cách khắc phục những thiếu sót đó.


HÃY BIẾT NÓI VÀ BIẾT NGHE

Có ba chị em xinh đẹp và rất giống nhau cùng sống trong một nhà. Cô chị cả lấy chồng nhưng chẳng bao lâu bất ngờ chết sớm. Vì rất yêu vợ nên người chồng lấy cô em thứ hai mà chẳng phải suy nghĩ lâu. Có ai ngờ được, cô này ít lâu sau cũng lăn ra chết. Khi đó người đàn ông buồn rầu cưới cô em thứ ba. Một thời gian trôi qua, anh ta gọi điện cho bố mẹ cô gái và nói: - Bố mẹ có thể cười ngất được đấy, cả cô ấy cũng chết rồi!

Trường hợp này rất thường gặp: Một người học xong trường phổ thông, đã học đọc, học viết rồi, nhưng các bạn hãy tưởng tượng xem, anh ta vẫn chưa học được cách nói năng! Chuyện tiếu lâm trên cũng nói về điều đó. Khốn thay, nhược điểm không biết nói chuyện - thường được kể trong các chuyện tiếu lâm - lại gây trở ngại trong cuộc sống thực tế, nó ảnh hưởng đến số phận mỗi chúng ta, làm khốn khổ và có khi làm hỏng cả cuộc đời chúng ta. Nếu mọi người biết nói chuyện hơn, có sức thuyết phục hơn, biết cách giao tiếp và hiểu nhau tốt hơn thì có thể tránh được biết bao nhiêu tai hoạ, ly dị và cãi cọ nhau! Giọng nói là thứ nhạc cụ đầu tiên và hoàn hảo nhất mà con người được ban cho. Nếu cái nhạc cụ này ngân vang sai nốt, to quá hay nhỏ quá, nếu nó bị chỉnh kém thì phải luyện tập nó và chỉnh nó lại. Tài biết nói chuyện trước hết phụ thuộc vào kỹ thuật nói, tuy nhiên, khả năng hiểu tâm lý giao tiếp cũng có ý nghĩa không kém phần quan trọng. Nhưng về điều này chúng ta sẽ nói sau. Nếu giọng nói khàn khàn, đơn điệu, đều đều, nhạo báng, trịch thượng, khản đặc, châm chọc, thô bỉ, trêu tức, thô lỗ, độc địa, giả dối, xun xoe, v.v. và v.v... (trong ngôn ngữ có trên một trăm từ khác nhau định nghĩa xấu về giọng nói), thì khó có thể gây được cảm tình với người nghe cho dù người đó nói lên điều chân lý không thể chối cãi được. Trái lại, giọng nói hay điệu nói dịu dàng, trong trẻo, ân cần, hoạt bát, trẻ trung, cởi mở, đồng cảm, thân mật, tự tin, chân thành... tất nhiên là dễ chịu hơn nhiều đối với người xung quanh. Cho nên, dưới đây tôi sẽ đề cập một chút về kỹ thuật nói và đưa ra vài lời khuyên có tính chất thực dụng để nâng cao kỹ thuật nói, nếu bạn thấy những thiếu sót trong lời nói của bạn hay những người xung quanh nói cho bạn biết những thiếu sót đó. Ở đây, tôi chỉ nói đến các khiếm khuyết không cần đến sự giúp đỡ của bác sĩ hay chuyên gia chỉnh giọng: nếu người nói lắp hay bị thiếu răng thì những lời khuyên dưới đây khó có thể giúp được. Thậm chí trong số sinh viên tôi dạy ở Trường đại học quan hệ quốc tế Moskva có khá nhiều người trong giờ học không phải nói mà là lầm rầm cái gì đó với cái giọng đơn điệu, đều đều chán ngắt không ai có thể nghe nổi, dù đứng gần họ chỉ nửa mét thôi. Thế mà gọi là những nhà ngoại giao tương lai cơ đấy! Có sinh viên trả lời bằng cách... đứng quay lưng về phía giáo viên và lớp học, còn đầu thì nhìn về phía... bảng đen. Những sinh viên khác trong khi trả lời hoàn toàn không nhìn người nghe và không chú ý đến người đối thoại, v.v. và v.v... Đáng tiếc là những sinh viên dở như thế có không ít! Hơn nữa, hiện nay, chẳng riêng gì trong ngành ngoại giao mà cả trong nhiều nghề nghiệp khác cũng ngày càng cần những người biết cách giao tiếp, biết cách ăn nói, và những phẩm chất này cần thiết không kém gì những kiến thức nghề nghiệp. Thường thường nếu không phải là các nhà chính trị hay các nghệ sĩ chuyên nghiệp thì người ta nói để mà nói chứ không hề nghĩ đến giọng nói hay điệu nói của mình. Cố gắng để thuyết phục người đối thoại, họ dồn vào người đó tất cả những cái cảm xúc thường là không cần thiết của mình, như tức giận, nóng ruột, gay gắt mà không nghĩ đến những lý lẽ có thể giúp họ đạt được mục đích đã đặt ra. Sau đó, họ mới ngạc nhiên khi thấy rằng người ta không thèm nghe ý kiến của họ hay thậm chí hành động hoàn toàn trái ngược với ý muốn của họ. Có lẽ mỗi người đều tin rằng câu nói của mình không có thiếu sót, vì không ai chịu phân tích cách nói và không nghĩ về điệu nói mình vẫn dùng và không muốn biết người đối thoại có cảm tưởng gì về mình. Và điều đó cũng dễ hiểu thôi - người ngoài mới nhận thấy rõ ràng những thiếu sót đó hơn. Thông thường người đối thoại không cảm nhận ngay cái lôgich của lời nói dù nó có đúng thế nào chăng nữa, mà cảm nhận trước hết những cảm xúc, nhất là những cảm xúc xấu, như giận dữ, bực dọc, v.v... Và người đó phản ứng cũng tương tự như vậy. Để người đối thoại có thể hiểu bạn rõ hơn, cần phải tập luyện kỹ thuật nói trước hết. Những thiếu sót nào thường hay gặp hơn cả? 1) giọng nói quá nhỏ hay, ngược lại, quá to; 2) cách cấu âm kém; 3) dùng những từ và những âm thừa làm hỏng câu nói; 4) giọng nói đơn điệu (đều đều, nhạt nhẽo, không sinh động, buồn tẻ, v.v.); 5) không biết thay đổi giọng nói tuỳ theo đề tài câu chuyện. Một người có những thiếu sót này thường không nhận thức được chúng, không cảm thấy và thậm chí không nghi ngờ gì về sự tồn tại của chúng. Cho nên, tôi khuyên tất cả những ai muốn cải thiện lời nói của mình, nhất là những người làm các việc liên quan đến sự giao thiệp, tiếp xúc, nên dự những buổi tập luyện của huấn luyện viên nói năng và giao tiếp. Ở đó giáo viên sẽ nhận thấy những thiếu sót trong lời nói của bạn và sửa chữa cho riêng bạn. Tất nhiên, trong gia đình, lời nói cũng không kém phần quan trọng, thậm chí có khi còn quan trọng hơn ở chỗ làm việc, bởi vì chỗ làm việc thì còn có thể thay đổi được. Chúng ta bắt đầu từ giọng nói quá nhỏ. Thế thì có gì xấu? Nếu có một bà nội trợ hay một cô gái trẻ mà có giọng nhỏ nhẹ và hơi rụt rè thì điều đó rất dễ thương. Nhưng nếu một cô gái tốt nghiệp đại học đã trở thành bác sĩ thì lại khác hẳn. Các cụ già nghễnh ngãng đến khám bệnh và ngồi đối diện với bác sĩ mà không nghe được bác sĩ khuyên bảo gì. Họ hỏi đi hỏi lại, bác sĩ nhắc đi nhắc lại, các cụ già bực dọc và giờ khám kéo dài thêm, bác sĩ không kịp tiếp tất cả các bệnh nhân đang ngồi xếp hàng chờ đền lượt mình, v.v. và v.v... Có thể nữ bác sĩ này là một chuyên gia tuyệt vời trong lĩnh vực y học, nhưng chắc gì có thể coi là bác sĩ tốt! Bởi vì ngoài trình độ kiến thức nghề nghiệp cao, người bác sĩ còn phải có nhiều phẩm chất khác. Hay nói về một bà nội trợ nọ. Bà chán ngồi ở nhà, con cái đã lớn hết cả rồi và bà định đi làm giáo viên ở trường phổ thông. Dễ hiểu là bà giáo này có phẩm chất nào, nếu như học sinh chỉ ngồi ở dãy bàn thứ ba đã hầu như không nghe được bà lí nhí nói gì?! Trẻ em xôn xao, không nắm được bài giảng, không thích môn học, v.v. và v.v.... Điều này sẽ khác hẳn, nếu như bà giáo này vừa có những kiến thức nghề nghiệp tuyệt vời lại vừa có giọng nói to hơn một chút. Còn các nhân viên bảo hiểm, sinh viên và nghiên cứu sinh, nhà khoa học, nhà hoạt động chính trị, nhà báo ở đài phát thanh và truyền hình, nhân viên bán hàng, nhân viên ngân hàng, thủ trưởng các cấp, các nhân viên bán đại lý, người buôn bán chứng khoán, thành viên tiếp thị (marketing) theo mạng, người phát ngôn và rất nhiều nghề khác đều đòi hỏi phải giao tiếp thường xuyên hay nhiều khi phải phát biểu trước công chúng, trước khán giả truyền hình, thính giả truyền thanh, trước các đồng nghiệp, thì họ càng cần phải có giọng nói to và rõ ràng. Đối với họ cái giọng nói nhỏ thật là tai hoạ. Các bạn hãy hình dung xem, buổi bảo vệ luận án tiến sĩ của một nghiên cứu sinh hay bài thuyết trình về phát minh khoa học của một nhà khoa học tại cuộc hội nghị nào đó. Không phải lúc nào trong phòng cũng có sẵn micro, và nếu có đi chăng nữa thì nó vẫn có thể bị hỏng vào đúng lúc cần nhất. Trong trường hợp này thì không một ai ngoài những người ngồi hàng đầu có thể nghe được người phát biểu đang lẩm bẩm nói điều gì. Cảm tưởng (biểu quyết, nhận xét) của người nghe cũng tương ứng như vậy. Ngoài ra, có khi lời phát biểu ở những nơi bất ngờ nhất, như ở bàn tiệc, trên đường phố, giữa đám đông ồn ào hay thậm chí trong hành lang, cũng có ý nghĩa quyết định. Trong trường hợp này, giọng nói nhỏ có thể làm hỏng tất cả và không cho phép sử dụng cái cơ hội bất ngờ đó được. Do đâu mà có giọng nhỏ? Trước hết là do dây thanh âm (còn gọi là thanh đới) yếu và dung lượng phổi không đủ lớn. Dây thanh âm cũng như dung lượng phổi đều có thể phát triển hay luyện tập được. Làm sao có thể tập luyện được? Dung lượng phổi tăng lên khi: - tập bơi và tập một vài môn thể thao khác; - đơn ca hay hát trong đội đồng ca; - làm các bài tập đặc biệt như thổi bong bóng hay đồ chơi bằng cao su (mà những người điều khiển chương trình truyền hình hay các nghệ sĩ thường tập); - tập thể dục theo phương pháp của bà A. Strelnhikova: thở vào khi lồng ngực ép lại, thở ra khi lồng ngực giãn ra; Tốt hơn nên kiểm tra dung lượng phổi ở phòng khám bệnh đa khoa xem nó có bình thường hay không. Sau một thời gian tập luyện nên kiểm tra xem nó tăng lên bao nhiêu. Cũng có thể tự kiểm tra kết quả tập luyện. Để làm điều này phải hít không khí căng đầy lồng ngực và khi thở ra hãy đếm: một, hai, ba, v.v. Phải nhớ con số cuối cùng khi bạn buộc phải hít không khí vào phổi lần nữa. Sau một thời gian luyện tập lại đếm với nhịp độ như cũ. Con số đếm cuối cùng tăng, như vậy là việc tập luyện có kết quả tốt. Về phần dây thanh âm thì nên làm như sau: - hát trong đội đồng ca hay trong nhóm; - hát karaoke; - ngâm thơ hay đọc thành tiếng to dần; - hát theo giọng hát trên radio. Để làm việc này không nhất thiết phải bỏ riêng thì giờ ra mà có thể làm trong khi nấu ăn dưới bếp hay làm công việc nội trợ nào đó. Cũng có thể làm như sau: vừa lùi dần để cách xa nguồn âm thanh vừa từ từ tăng cường độ của giọng hát lên (tất nhiên, đừng để đứt dây thanh âm!) đến khi to hơn cả ca sĩ. Có thể làm một cách khác nữa: bật to dần radio (máy cassette) và cũng hát theo với cường độ giọng hát tăng dần làm sao cho giọng hát của mình không nhỏ hơn trong máy. - có thể cùng tập với người khác: trong vườn (tại nhà nghỉ, trong rừng, trong hành lang dài, trong phòng ngoài rộng, trên đường vắng, nghĩa là ở bất kỳ nơi nào thuận lợi có không gian rộng rãi và vắng người) để người bạn, cha hay mẹ bạn đứng một chỗ, còn bạn đứng gần và nói một câu gì đó (đọc thơ chẳng hạn). Sau đó lùi xa chừng hai mét và đọc chính câu đó với điều kiện duy nhất: người kia phải nghe câu bạn nói rõ như lần trước. Sau đó lại lùi xa hơn nữa và nói lại chính câu đó nhưng to hơn lần trước một chút để cho người kia có thể nghe thấy câu nói với độ to như cũ. Cùng lắm nếu bạn không tìm ra ai giúp bạn, hay vì xấu hổ, thì có thể dùng một vật thể nào đó như là “người giúp việc” cho bạn, chẳng hạn như cái cây, cái ghế, v.v... Bài tập này phải làm một cách đều đặn, dần dần tăng cường độ giọng nói của mình lên, nếu không sẽ làm mất giọng. Điều quan trọng không phải là có kết quả nhanh chóng (không thể có như thế được đâu!) mà phải tập luyện đều đặn và lâu dài. Nếu đã bắt đầu tập luyện thì đừng bỏ. Tất nhiên một điều dễ hiểu: càng tập lâu thì kết quả càng tốt. Giọng nói quá to cũng làm người nghe khó chịu không kém giọng nhỏ. Người nói giọng quá to bị coi là thiếu văn hoá, quá tự tin và bất nhã, điều đó chắc cũng đúng. Có thể là người ấy có nhiều phẩm chất tốt, nhưng chưa kịp thể hiện chúng, mà cái cảm tưởng không tốt ở người đối thoại đã được xuất hiện ngay từ khi nghe những lời nói đầu tiên. Giọng nói to chỉ cần trong cuộc họp, trên bãi tập, trong cuộc duyệt binh, chỉ huy sư đoàn, trong cuộc mitting, trong buổi tiệc (chỉ trong trường hợp nếu bạn là người chủ tiệc hay phát biểu). Còn trong hoàn cảnh bình thường giọng to gây cảm giác khó chịu, làm mất cảm tình đối với người nói và thậm chí còn làm những người xung quanh đau đầu nữa. Nói to, hò hét hay nói đùa oang oang nơi công cộng là một thói rất xấu: trong cửa hàng, trên đường phố, trong xe buýt, trong toa tàu, v.v... ta thường thấy những nhóm trẻ em hay thanh niên la hét ầm ĩ. Nhiều khi có cả cô giáo đi kèm, nhưng cô chẳng hề nhắc nhở chúng, chẳng hề bảo ban chúng cư xử khiêm tốn hơn và văn hoá hơn, có thể vì khi còn trẻ chính cô giáo cũng không được giáo dục đến nơi đến chốn. Cho nên bạn hãy học cách điều chỉnh giọng nói to nhỏ trong những tình huống khác nhau để có lợi cho chính mình. Nói nhỏ hơn so với thói quen của bạn thì dễ hơn là tăng cường độ giọng nói. Ở đây, chỉ cần kiểm soát thường xuyên giọng nói chứ không cần bài tập nào cả. Nhưng nên nhớ là khi nói chuyện với các cụ già thì phải nói to hơn một chút so với bình thường, vì họ thường hay bị lãng tai. Nếu bạn nói lí nhí cái gì đó trong miệng mà lại còn ngoảnh mặt đi chỗ khác thì người già hoặc sẽ gật đầu lia lịa (một số người thường giấu tật điếc của mình) hoặc là phải hỏi đi hỏi lại nhiều lần. Điều này chắc không thể gây cảm tình ở bạn và ở người già được. Trong trường hợp này người già sẽ coi bạn là người không biết quan tâm hay thiếu tế nhị với người khác, và như vậy cũng đúng thôi. Hơn nữa, theo thống kê y học, có đến 10 – 15% thanh niên thính lực suy giảm, nhất là những người hay đi nhảy disco hay dự những buổi biểu diễn ca nhạc quá ồn. Cho nên bạn phải coi chừng đấy! Cách cấu âm kém là như thế nào? Đây chính là do cơ quan phát âm hoạt động kém, trước hết là đôi môi. Đầu tiên bạn hãy quan sát người đối thoại hay những người nói chuyện với nhau trên xe buýt, trong cửa hàng, trên đường phố, trên màn hình tivi. Chỉ có điều đừng quan sát một cách vô tư, mà quan sát như một huấn luyện viên nói năng và giao tiếp. Khi quan sát, trước hết bạn phải chú ý đến đôi môi của người nói. Đôi môi của người ta rất khác nhau, cả về hình dáng lẫn về cử động của chúng. Ở một số người miệng chỉ như là cái rãnh nhỏ, khi nói đôi môi gần như không hé ra, miệng gần như không mở. Lúc người đó nói, mặt anh ta trông như cái mặt nạ vì bộ phận linh động nhất trên khuôn mặt chính là đôi môi (còn mũi và hai má tất nhiên luôn luôn gần như bất động), nhưng chúng lại hầu như không nhúc nhích. Cách cấu âm của đôi môi quá kém là một tật lớn khi nói, vì một khuôn mặt như chiếc mặt nạ gây nên cho người đối thoại một ấn tượng khó chịu. Nếu người đối thoại không nhìn chăm chăm (như một huấn luyện viên nói năng và giao tiếp hoặc một chuyên gia chỉnh giọng) vào đôi môi hầu như bất động của người nói, anh ta vẫn có cảm giác khó chịu, dù chỉ trong tiềm thức. Thật kỳ lạ, cách nói năng như vậy nhiều khi thấy cả ở các phóng viên (theo tôi, những phóng viên như thế không thể coi là chuyên nghiệp được!), ở những nhà hoạt động xã hội, ở các vị quan chức trả lời phỏng vấn trên đài truyền hình. Khác với những người có cấu âm yếu là những người có đôi môi hoạt động quá mạnh. Đôi môi những người này tuy không đẹp lắm, nhưng dù sao cũng dễ chịu hơn. Đôi môi cử động quá mạnh chúng ta thường hay thấy ở những đứa trẻ đang làm nũng, ở những cô tiểu thư thích làm điệu và ở những nghệ sĩ chuyên nghiệp. Nếu quan sát các nghệ sĩ trên tivi hay trên màn ảnh (khi mặt họ được chiếu to), chúng ta sẽ thấy ngay môi họ cử động linh hoạt, rất chuyên nghiệp. Cách cấu âm như thế người thường không có được. Tính chuyên nghiệp của họ biểu hiện ở chỗ nào? Trước hết là đôi môi của các nghệ sĩ hoạt động rất dẻo, cả môi trên lẫn môi dưới đều dẻo như nhau. Còn nếu các nữ nghệ sĩ mà cười thì tin chắc là có thể thấy hết cả răng và phần nào lợi của họ. Nụ cười ấy không thể có ở những người bình thường, nếu có chăng nữa thì thường hay thấy ở những người có hàm răng vẩu “như ngựa”. Khi bạn đã học quan sát một cách chuyên nghiệp đôi môi của người nói và thấy được những thiếu sót của chúng (may thay, phần đông đều có hàm răng và cấu âm tương đối bình thường), thì bạn có thể phân tích được cách cấu âm của mình. Có thể nhờ một ai đó trong số người thân hay bạn bè của bạn cùng làm việc này. Tất nhiên, nếu có điều kiện bạn vẫn nên hỏi ý kiến người huấn luyện viên nói năng và giao tiếp. Nếu không tìm được người giúp, bạn có thể quan sát cách cấu âm của mình trong gương soi hay xem đoạn băng video ghi lại khuôn mặt phóng lớn của bạn. Để làm điều đó bạn hãy lấy một đoạn văn hay nhớ lại một bài thơ nào đó để đọc trước gương hay máy quay video. Bạn phải đọc một cách bình tĩnh mà không được nghĩ về việc máy quay đang làm việc hay bạn đang ngắm nhìn mình trong gương. Hãy phân tích xem đôi môi và cả miệng của bạn cử động như thế nào. Thường thấy môi dưới hoạt động tích cực hơn môi trên. Khi bạn thấy cấu âm của mình có thiếu sót gì đó thì phải cố gắng ít nhất là giảm bớt, nếu không sửa lại hoàn toàn được. Đôi môi có rất nhiều cơ nhỏ và có thể rèn luyện, phát triển chúng như các cơ bắp trên chân tay. Các bài tập rất đơn giản, cái chính là phải tập đều đặn. Nếu bạn đã bắt đầu thì đừng có bỏ dở mà phải tập luyện hằng ngày, dù chỉ năm phút mà thôi. Việc tập luyên lâu dài chắc chắn đem lại kết quả. 1) Chia làm hai cột riêng, phụ âm ở cột bên trái và nguyên âm ở cột bên phải, trong bảng chữ cái. Sau đó hãy đọc theo thứ tự các vần: mỗi phụ âm đọc kết hợp với tất cả các nguyên âm theo thứ tự: ba, bă, bâ, be, bê, bi... ca, că, câ, ke, kê, ki... da, dă, dâ, de, dê, di... v.v...

B A C Ă D Â Đ E F Ê G I H O J Ô K Ơ L U M Ư N Y P Q R S T V X Z Thật Khi đọc phải căng cơ môi để cấu âm một cách tối đa. Cần phải chú ý đặc biệt các âm như I, Ô, U, B, F, P, V. Mẩu giấy ghi các chữ cái rất tiện mang theo mình trong túi. Trong ngày, lúc nào tiện thì lấy ra và luyện tập, như thế không cần phải mất thì giờ để luyện riêng.

2) Lấy một đoạn văn và đọc với đôi môi căng cơ tối đa, nhất là khi đọc các phụ âm như B, F, P, V. Chú ý đặc biệt đến các nguyên âm như I, Ô, U – đôi môi phải làm việc tích cực nhất khi đọc các nguyên âm này. Nếu mỗi ngày bạn dành ra 5 – 10 phút để luyện đọc như vậy thì kết quả sẽ thấy rõ sau 3 – 4 tuần lễ.

3) Tất nhiên là cần phải thường xuyên theo dõi đôi môi và cách nói của mình. Nếu bạn cấu âm kém thì trong lúc nói chuyện hãy cố nói rõ hơn, quả quyết hơn với đôi môi căng cơ và hoạt động một cách tối đa.

Bây giờ xin nói đến những từ và những âm thừa gây khó chịu. Đáng tiếc là ta thường thấy những từ và những âm thừa đó trong các bài nói của nhiều bình luận viên, phóng viên phát thanh hay truyền hình và các nhà hoạt động xã hội. Theo tôi, điều này trước tiên tỏ rõ sự thiếu văn hoá trong lời nói. Lẽ nào có thể coi một phóng viên truyền hình không biết cách nói có văn hoá là chuyên nghiệp được ư?! Người ta thường phát ra những âm thừa này khi gặp khó khăn trong quá trình tư duy: ý nghĩ chậm chạp không theo kịp lời nói. Những âm thừa của người nói chúng ta nghe như cảm thấy tiếng ken két của những ý nghĩ mòn gỉ và chậm chạp. Khi ý nghĩ hay cái từ cần thiết vẫn chưa xuất hiện trong đầu, thì người nói thêm vào đó những tiếng ư ử, những từ vô nghĩa và những âm kiểu như: à à à.... è è è... để làm ra vẻ như đang nói không dứt đoạn, để không làm người đối thoại hay người nghe chán vì những đoạn ngắt lâu. Thông thường người nói không nhận thấy cái lỗi này, trong khi người huấn luyện viên nói năng và giao tiếp thì thấy ngay. Để thấy được những thiếu sót này, bạn phải hỏi ý kiến những người thân và bạn bè có óc quan sát, hay tốt nhất là nhờ huấn luyện viên nói năng và giao tiếp, đề nghị họ để ý khi bạn nói, nghe bạn nói trong lúc bạn không biết người ta đang kiểm tra bạn. Tốt hơn nữa nếu bạn đề nghị họ bí mật ghi vào máy thu bài phát biểu, lời chúc mừng, bản thuyết trình của bạn. Với người mắc phải cái tật này thì có thể khuyên anh ta điều gì? Trước hết, cần nói cho anh ta biết rằng đây là cái tật rất nghiêm trọng, còn tệ hơn tật nói ngọng, nói chớt, sửa nó còn khó hơn nhiều so với việc cải thiện cấu âm, vì cái tật này do thiếu trình độ văn hoá chung, nghèo nàn về vốn từ và quá trình tư duy chậm chạp. Trình độ văn hoá chung không phải là đề tài của cuốn sách này, không thể nâng cao nó lên được bằng những bài tập đặc biệt, còn tốc độ của quá trình tư duy do bẩm sinh, là nét đặc biệt về tâm lý của con người và khó có thể điều chỉnh được. Khi nghe một người tuy nói chậm và hay có các đoạn ngắt trong câu vẫn có cảm giác dễ chịu hơn khi nghe một người nói chán ngắt đầy những từ và âm thừa. Những người trong khi nói chuyện lại cứ ư ử, ư ử gây nên một cảm giác như đang diễn ra một quá trình nào đó thuần túy sinh lý, chứ không phải là quá trình tư duy. Chính vì thế tôi khuyên những ai bị cái tật này nên cố bỏ đi. Nhưng tôi xin báo trước rằng để sửa cái tật này cần phải có một ý chí rất mạnh. Điều quan trọng là người bị tật này phải thường xuyên theo dõi bản thân, theo dõi từng âm phát ra và phải loại bỏ những âm thừa khi chúng còn chưa phát ra. Hoàn cảnh này có khi tương tự như trong chuyện tiếu lâm về con rết: Người ta hỏi nó khi đi thì nó chuyển động chân theo thứ tự nào, nó bắt đầu suy nghĩ về điều mà từ trước đến nay nó chưa hề nghĩ tới, vì từ xưa đến nay nó đi một cách tự nhiên. Cuối cùng, con rết dừng lại và không thể bước tiếp được nữa! Người bị tật nói trên cũng giống như vậy. Nếu người ấy cứ phải theo dõi từng cách nói của mình thì có thể với những khó khăn về tư duy và nói năng vốn có, anh ta sẽ bị nói lắp hay không thể nói được lời nào nữa! Có thể sử dụng cả “những đòn bẩy kinh tế”: tập luyện với một người nào đó thường hay ở bên cạnh bạn, như cha, mẹ, ông, bà, v.v... Hãy nhờ người đó thường xuyên theo dõi cách nói của bạn. Cứ mỗi lần bạn nói một từ (một âm) thừa thì đề nghị người đó phạt bạn một số tiền nhỏ. Tất cả mọi người sẽ ngạc nhiên vì đến cuối tuần (hay cuối tháng, nếu những người tham gia có đủ kiên nhẫn và đủ tiền để kéo dài cuộc thí nghiệm) sẽ có được một số tiền khá lớn. Có thể là cái tính tiếc tiền sẽ giúp cho ai đó nhanh chóng thoát khỏi những tật xấu trong cách nói. Khi xem tivi hay nghe radio, tôi khuyên bạn nên chăm chú nghe những câu nói và phát hiện thường xuyên những từ hay những âm thừa trong đó. Nếu bạn đã học được cách nghe người khác thì bạn cũng sẽ sửa mình dễ hơn. Xin nói về giọng nói đơn điệu, đều đều, nhàm chán. Giọng của những người như vậy không đủ âm bội, hơn nữa âm vực cũng không rộng. Khi phải nói trước công chúng (bài tham luận, bản thuyết trình, thông báo, bảo vệ luận án, lời phản biện, phát biểu trước tòa án, v.v...), thì họ rất khó thu hút được sự chú ý của người khác. Người nghe nhanh chóng bị mệt, mất tập trung và buồn ngủ. Vì vậy, ít có ai theo dõi và nhớ được nội dung của bài phát biểu. Bài thuyết trình của một nhà bác học dù lỗi lạc nhất hay của một cán bộ quản lý tài năng rất có thể không ai để ý đến, và phát minh của ông ta có thể trở thành vô dụng, đề nghị của anh ta có thể bị bác bỏ. Giọng nói đơn điệu (đều đều, buồn tẻ, nhạt nhẽo, thiếu sinh động) vẫn có thể sửa được bởi vì dây thanh âm, âm vực và dung lượng phổi đều có thể và cần phải tập luyện và phát triển. Việc tập luyện này gần giống như làm những bài tập để cải thiện giọng nói quá nhỏ. Vả lại, giọng nói đơn điệu, đều đều thường hay khá nhỏ. Trong việc này, cũng phải có sức mạnh ý chí tối đa. Phải thường xuyên hát cùng với radio (tivi), nói theo người phát thanh viên hay người ca sĩ đang hát, nếu không biết trước lời nói hay lời ca thì cứ phát âm “la-la-la” theo giọng của họ. Cố gắng lặp lại giống như âm sắc của giọng những người này. Phải cố gắng hát theo và nói theo những người có âm sắc và âm vực khác nhau. Tất nhiên, phải thường xuyên theo dõi bản thân và cố nói bằng giọng trầm hơn nếu giọng nói của bạn the thé và chối tai; còn nếu giọng bạn quá thấp hay quá thô thì hãy nói với giọng cao hơn. Ngoài ra, tôi cũng có thể khuyên bạn như sau: khi đọc một bài diễn văn dài, thỉnh thoảng phải thay đổi giọng nói (tất nhiên, ở những chỗ thích hợp) – nói cái gì to hơn, cái gì đó nhỏ đi đôi chút, và đồng thời không quên sử dụng các chỗ ngắt quãng để tách ra những phần khác nhau về nội dung trong bài. Khi đó bài phát biểu sẽ trở nên thú vị hơn nhiều, bớt đơn điệu, bớt buồn tẻ và tất nhiên là sẽ được người nghe tiếp thu tốt hơn. Nếu có thể thì bạn nên tham gia nhóm độc tấu văn nghệ, nhóm ngâm thơ, nhóm ca kịch hay cùng lắm nhóm múa rối. Kể chuyện tiếu lâm cũng rất có ích, vì trong đó có các nhân vật điển hình khác nhau và phải diễn đạt bản chất mỗi nhân vật bằng một hai câu với những ngữ điệu hay giọng lơ lớ tương ứng. Chuyện tiếu lâm hay có thể trở thành không hay nữa, nếu người kể đóng vai các nhân vật khác nhau mà nói bằng cái giọng đều đều nhàm chán như nhau. Để minh hoạ điều này, tôi xin dẫn ra chuyện tiếu lâm tuyệt vời sau đây mà toàn bộ cái hay của nó không phải là ở hoàn cảnh buồn cười như thường có, mà là ở cái tài của người kể biết điều khiển giỏi giọng nói của mình. Toàn bộ chuyện tiếu lâm thật ra chỉ có một câu duy nhất gồm ba từ Nga, lại phát âm không chuẩn.

Sau khi chôn cất vợ xong, một người Gruzia trở về nhà. Anh thốt lên: - Ađyn, xaaapxem ađyn! (Một mình, hoàn toàn một mình!) - Ađyn, xaaapxem ađyn? (Một mình, hoàn toàn một mình?) - Ađyn, xaaapxem ađyn!!! (Một mình, hoàn toàn một mình!!!)

Chuyện tiếu lâm này phải nghe kể mới thú vị, chứ ở dạng viết thì không thể hiểu được cái hay của nó. Vì sao vậy? Vì phải biết phát âm mỗi câu bằng giọng điệu thích hợp và kèm theo những điệu bộ tương ứng khác nhau. Câu thứ nhất biểu lộ nỗi đau khổ, buồn rầu và kèm theo điệu bộ đầu chống tay, gục đầu xuống. Chàng đang sống với quá khứ của mình. Câu thứ hai biểu lộ sự suy nghĩ sâu xa, phân vân, chàng nguôi nỗi khổ đau, rời khỏi quá khứ và bắt đầu suy nghĩ về hiện tại, về hoàn cảnh mới và đánh giá nó. Chàng hơi tươi tỉnh ra một chút. Câu thứ ba phải nói với sự hưng phấn, với niềm vui, vì chàng bắt đầu suy nghĩ về tương lai của mình, hiểu được rằng chưa phải là mất tất cả và chàng có thể xây dựng cuộc sống mới, gia đình mới. Anh chàng Gruzia này đứng dậy và... múa điệu vũ dân tộc của mình. Kể câu chuyện tiếu lâm này cho người nghe thích thú thật là khó: cần phải biết thay đổi giọng nói của mình để diễn đạt ba tình huống hoàn toàn khác nhau, ba tâm trạng khác nhau và đồng thời diễn đạt giọng nói lơ lớ của người Gruzia. Ngoài ra cần phải có nghệ thuật biểu diễn nữa. Bạn nên tập luyện với chuyện tiếu lâm này và những chuyện tiếu lâm khác đòi hỏi phải thay đổi giọng nói và âm điệu.

Không biết thay đổi giọng nói cũng là một thiếu sỏt lớn.

“Có 50 cách nói “có”, 500 cách nói “không”, mà chỉ có một cách viết những từ này mà thôi”. - Bernard Shaw (1856 – 1950), nhà văn Anh.

Trong một loạt trường hợp, nhất là trong những cuộc gặp gỡ chính thức, không được dùng giọng điệu như: nũng nịu, vòi vĩnh, giận dữ, khiêu khích, thờ ơ, giả dối, bực tức, mệt mỏi, bất bình, châm chọc, v.v... Nếu một người không biết thay đổi giọng nói của mình mà cứ nói bằng cái giọng điệu không thích hợp với hoàn cảnh thì sẽ thất bại trong sứ mệnh, nhiệm vụ, kế hoạch hay cuộc đàm phán. Giọng điệu không thích hợp thường cũng là nguyên nhân của những va chạm, tranh cãi, hiểu lầm nhau hay giận hờn trong gia đình. Cho nên việc học cách thay đổi giọng điệu là rất có ích đối với bất kỳ người nào, nhất là đối với người trẻ tuổi chưa có kinh nghiệm sống. Đây là một đoạn trích hay lấy trong sách “Về thuật hùng biện” (Moskva, 1983) của E. Adamov. Đôi khi điều quan trọng nhất là ở giọng điệu của câu nói. Điều đó rất dễ thấy khi nhớ lại một câu chuyện xảy ra ở vùng nông thôn Nga trước cách mạng 1917. Một ông lão nông nhận được thư của người con trai sống ở thành phố. Ông lão mù chữ nhờ một anh chàng biết chữ đọc giùm thư. Anh này đọc bằng giọng thô kệch và không chút biểu cảm. Thế mà trong thư, người con trai xin tiền của cha. Người cha nghe thấy con mình xin tiền bằng cái giọng như vậy bèn nổi giận. “Thằng hỗn, dám xin tiền tao bằng cái giọng như thế - người cha nói, - tao không cho đâu!”. Và ông ta không gửi tiền thật. Nhưng trái tim người cha chóng nguôi giận. Một thời gian sau, ông gặp một người khác có học cùng làng và dẫn anh ta về nhà. Ông nói: “Nhờ anh đọc bức thư của thằng con trai tôi để tôi nghe lại. Anh có biết không, nó xin tiền tôi mà lại dùng cái giọng thật là thô lỗ nên tôi chẳng gửi cho nó gì cả”. Anh ấy đọc cho ông lão nghe bằng cái giọng hiền lành và khẩn khoản. Ông lão nghe xong, mặt tươi cười. “Thế mới phải chứ! - ông lão nói, - Đáng lẽ từ đầu nó phải xin tôi như thế! Chứ anh có thấy lúc đầu nó đòi như thế nào không?!”. Và ông bèn gửi tiền cho con trai. Cũng với những từ ngữ đó nhưng bây giờ lại thành lời khẩn khoản, nhã nhặn.

Lúc chuyện trò, nhiều khi bạn cần che giấu không cho người đối thoại biết là mình mệt mỏi, không khoẻ, có ác cảm, thù ghét, khinh bỉ, bực tức, buồn chán, giận dữ, ghen tị, khó chịu, v.v... vì không muốn gây một tình cảm nào đó cho người nghe (như buồn phiền, lo lắng, ác cảm, v.v...). Mà thật ra không phải ai cũng làm được điều đó. Chỉ có những nghệ sĩ, luật sư, giáo viên, nhà truyền đạo hay chính khách giỏi mới điều khiển được giọng nói của mình ở mức độ điêu luyện. Làm thế nào để một người bình thường có thể đạt được điều ấy? Tình cảm mà bạn muốn giấu vẫn vô tình bộc lộ ra ở giọng nói mà hoàn toàn không phụ thuộc vào nội dung của lời. Và người đối thoại nhờ linh cảm, nhờ tai nhạy bén vẫn có thể cảm nhận được tình cảm ẩn giấu đó, vì thế nhiều khi có thể phá hỏng cái dự định, quan hệ tương hỗ và thậm chí cả số phận của bạn nữa. Tập ngâm thơ, độc tấu văn nghệ, hát karaoke và kể chuyện tiếu lâm sẽ giúp bạn học được cách điều khiển giọng nói và điệu nói của bạn. Ngoài ra, bạn còn phải thường xuyên theo dõi mình, phải phân tích cả nội dung lẫn giọng nói và điệu nói khi đối thoại với người khác. Mọi người đều biết câu: “Nói gì không phải bao giờ cũng quan trọng, nhưng nói như thế nào thì bao giờ cũng quan trọng”. Nếu chính bạn là người nghe thì hãy cố gắng xác định giọng nói và điệu nói của người đối thoại, chẳng hạn, thân thiện, kênh kiệu, trịch thượng, vui vẻ, buồn phiền, nũng nịu, thờ ơ, dạy đời, nghiêm khắc, trẻ trung, dọa dẫm, thiểu não, ân cần, v.v... Ngay cả khi ở trên xe buýt, trên đường phố, trong cửa hàng, khi tình cờ nghe người ta nói chuyện với nhau thì bạn nên cố miêu tả giọng nói và điệu nói của người ta. Bài tập sau đây cũng rất có lợi. Trước hết, hãy lập một danh sách đầy đủ nhất những từ nói về giọng nói và điệu nói mà bạn có thể nhớ được. Trên một cột đưa ra những từ có nghĩa tốt (vui vẻ, sảng khoái, yêu đời, thân mật, ân cần, v.v), trên cột khác là những từ có nghĩa trung hoà (to, cao, trầm, ngạc nhiên, nghi vấn, suy tư, v.v...) và trên cột thứ ba là những từ có nghĩa không tốt (the thé, trèo trẹo, giọng mũi khó chịu, ngọt xớt, thơn thớt, độc địa, đe dọa, đường mật, v.v...). Nếu bạn cố gắng làm thì sẽ có hơn một trăm từ trong bộ sưu tập của bạn. Sau đó hãy lấy một câu có tính trung hoà nhất (chẵng hạn, trong bảng cửu chương cũng được, như “chín lần tám là bảy hai” hay “bốn lần chín là băm sáu”), hãy chọn bất kỳ năm từ nào trong mỗi cột (có cả thảy là mười lăm từ) và đọc câu trên bằng giọng điệu tương ứng. Sau đó lại chọn tiếp năm từ khác và tiếp tục thay đổi giọng nói và điệu nói tương ứng. Muốn kiểm tra xem bạn đạt được kết quả tốt không thì có thể nhờ ai đó trong số những người thân của bạn đoán xem bạn đọc bảng cửu chương với giọng điệu nào? Nếu họ đoán đúng thì việc thay đổi giọng nói và điệu nói của bạn tương đối thành công.

Chắc bạn hiểu được rồi chứ, vì sao trong cuốn sách bàn về hạnh phúc mà tôi đề cập nhiều đến những kiến thức cơ bản về nói năng, giọng nói, điệu nói, cách nói? Vì tất cả những thứ đó có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời, số phận, tương lai của bạn, tức là đến hạnh phúc của bạn và những người thân yêu bạn. Biết cách nói năng thì bạn dễ dàng tìm và giữ được tình bạn, tình yêu, giữ được sự êm ấm, hoà thuận trong gia đình, dễ kiếm được việc làm, dễ có quan hệ tốt với đồng nghiệp, dễ làm ăn, kinh doanh, kiếm được tiền bạc, của cải, thực hiện được những điều mong ước của mình. Trái lại, không biết nói năng thì khó lòng đạt được những thứ trên, mà có khi còn gặp tai hoạ khó lường. Không biết nói năng có khi đưa đến những trận ẩu đả nhau, chém giết lẫn nhau. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tục ngữ Việt Nam có những câu: “Một lời nói, quan tiền, thúng thóc, Một lời nói, dùi đục, cẳng tay”.

“Một lời nói, một đọi máu”. Vì thế: “Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. Tôi mong rằng bạn sẽ nhớ kỹ những điều trên.

  • * *

Chỉ cần một người cũng có thể dẫn con ngựa đến chỗ uống nước, nhưng thậm chí cả một trăm người cũng không thể ép nó uống được. - Tục ngữ phương Đông.

Tự nguyện thì hơn là bị cưỡng bức. - Tục ngữ Nga.

Mỗi một người trong chúng ta ai mà chẳng muốn hạnh phúc - cả tôi, cả bạn, cả anh ấy, cả chị ấy... Nhưng lúc còn trẻ, chúng ta tưởng rằng hạnh phúc không tuỳ thuộc vào chúng ta – nó muốn đến khi nào thì đến và ngẫu nhiên đến, như một hoàng tử tuyệt vời trong chuyện cổ tích, hay là trúng xổ số. Lớn lên, dần dần con người mới bắt đầu hiểu được rằng phải tạo lập hạnh phúc bằng chính đôi bàn tay của mình. Đôi khi hiểu ra được điều này thì... đã quá muộn! Phải xây dựng và thực hiện kế hoạch hằng ngày, ngắn hạn, dài hạn, có những kế hoạch phải thực hiện suốt đời. Con người gần như phải lập kế hoạch cho tất cả mọi thứ: đi nghỉ phép ở đâu, phải học nghề nào, tặng bạn cái gì nhân ngày sinh, đi học những khoá ngôn ngữ nào, mua bộ quần áo nào cho ngày cưới, chuyển đến sống ở vùng nào, v.v... và v.v... Nhưng, nếu món quà hay bộ quần áo là những thứ tình cờ chỉ cần đến một lần thôi, thì việc chọn nghề nghiệp, chọn trường đại học, chọn bạn, chọn vợ hay chồng, chọn chỗ ở có ý nghĩa quyết định cho cả đời chúng ta, kể cả hạnh phúc của chúng ta. Rèn luyện bản thân là một việc thoạt nhìn có vẻ như bình thường hằng ngày, chỉ trong thời hạn ngắn. Nhưng trên thực tế không hoàn toàn như vậy. Chúng ta thử nhớ lại những người lái xe ngựa chở đá và đừng dừng lại ở trình độ của người đầu tiên, người không ngờ rằng anh ta “đang mở một cửa ngõ sang châu Âu”. Anh ta chỉ biết làm công việc chở đá mà thôi. Như vậy, khi hằng ngày tập luyện phát âm, học ngoại ngữ hay một môn nào đó nữa, chúng ta phải hiểu rằng nhờ đó chúng ta rèn luyện cho mình lòng kiên trì, chí hướng và dần dần trở nên con người khác, vươn tới trình độ mới, cao hơn và xây dựng tương lai của mình. Cho nên khi làm bài tập hoá, khi dọn nhà, cắt mẫu áo, đến thăm bà nội bị ốm, hãy nên nhớ rằng bằng cách này đồng thời bạn cũng “đang mở một cửa ngõ sang châu Âu” đấy! Và cũng đừng quên lời ca: “giữa quá khứ và tương lai chỉ một nháy mắt mà thôi, nháy mắt đó chính là cuộc đời!”. Cho nên đừng bỏ phí một giây phút nào trong cuộc đời này, và bạn hãy nhớ rằng tương lai của bạn tuỳ thuộc vào mỗi “một nháy mắt” trong hiện tại. Đừng phí thì giờ vào những việc vặt vãnh, nhất là những việc có tính chất phá hoại, không xây dựng và hãy tiếp tục tu dưỡng bản thân mình. Hãy nhớ những lời sau của Wolfgang Goethe (1740-1832), thi hào Đức nổi tiếng: “Nếu muốn làm được việc nào đó thì phải biết tự hạn chế mình”. Nhưng cũng đừng quên rằng bạn đang xây dựng hạnh phúc kiểu của mình. Đừng xây dựng những kế hoạch của mình chỉ vì cậu Tuấn, cậu Trúc cũng làm như vậy hay vì bà nội của bạn muốn thế. Có thể là cậu Tuấn hay cậu Trúc thực sự cần tham gia nhóm học môn hoá hay nhóm học tiếng Anh, nhưng bạn lại cần tham gia nhóm kịch hay nhóm vũ dân tộc. Đừng làm như nhân vật trong chuyện tiếu lâm sau. Có một người thích sống độc thân, nhất định không chịu lấy vợ. Bạn bè và người thân cứ nằng nặc khuyên nhủ anh ta mãi: - Này, anh nghĩ xem, sống cả đời độc thân, không vợ, không con. Đến khi hấp hối cũng chẳng có ai đưa cho một cốc nước uống cho đã khát. Khuyên bảo mãi, rồi cuối cùng anh mới chịu lấy vợ. Cưới vợ xong và cũng như bao người khác, anh có con, rồi có cháu. Về già, đến giờ phút lâm chung, nằm trên giường bệnh, bỗng nhiên ông ta khóc oà lên. Khóc thảm thiết không dứt. Vợ con ông xúm lại hỏi: - Sao mà khóc lóc thảm thiết thế? Ông lão trả lời: - Uổng công toi! Sao tôi chẳng khát nước tí gì cả!

Felix Krivin, nhà văn Nga nổi tiếng, đã viết về hậu quả của việc dùng hạnh phúc “của người khác” trong chuyện thiếu nhi với nhan đề: “Hạnh phúc”. Chuyện kể về một con gấu con cả đời vác theo mình cái hạnh phúc, như là một món hàng nặng quá sức. Cái hạnh phúc này là do gấu mẹ trao cho, chứ bản thân gấu con không làm gì và không biết làm gì cả để đạt được hạnh phúc riêng cho mình. Câu chuyện như sau:

HẠNH PHÚC

Ngày xửa ngày xưa, Chuột con và Gấu con sinh ra cùng một ngày trong rừng. Khi hai bà mẹ giặt tã lót thì hai ông bố uống rượu mừng và bàn nhau đi tìm kiếm hạnh phúc cho con. Hồi đó hạnh phúc là do các phù thuỷ ban phát. Họ nhận hạnh phúc theo hoá đơn và phân phát nó theo thứ tự xếp hàng. Điều khiển việc này là lão phù thuỷ già. Thấy Gấu bố, lão hỏi: - Chào bác Gấu, vị công dân danh dự của rừng xanh! Bác đến xin cái gì thế? - Hạnh phúc ạ. - Có ngay! Cắt ra hay để nguyên miếng cho bác? - Tôi có một người bạn đi cùng, - Gấu bố nói. – Ông bạn của tôi cũng cần xin hạnh phúc. Gấu bố ra tìm bạn Chuột bố nhưng chẳng thấy đâu cả. Chuột bố lạc đâu ở cuối hàng. Chẳng làm gì được, Gấu bố đành vác hạnh phúc lên vai và vội về nhà, vì sợ bà vợ ở nhà eo sèo. Chuột bố xuất hiện khi đến lượt mình. - Cậu cần gì thế? – Lão phù thuỷ hỏi. - Tôi xin hạnh phúc cho con trai tôi. - Hết cả rồi, chẳng còn cái hạnh phúc nào nữa! – Lão phù thuỷ vừa nói, vừa giấu cái gì đó dưới bàn. Chuột bố tay không trở về nhà. - Ôi, tai hoạ chưa! - Chuột mẹ khóc. - Chẳng có hạnh phúc cho con trai chúng mình! - Chẳng việc gì phải khóc cả, mẹ nó ạ, - Chuột bố nói. – Cái chính là có được thằng con trai. Lớn lên nó sẽ tự kiếm lấy. Khi chẳng có hạnh phúc thì thời gian trôi rất lâu. Tình hình Gấu bố thì khác hẳn - chẳng mấy chốc thằng con trai đã lớn phổng lên. Chuột bố vất vả hết ngày này qua ngày khác, đến khi Chuột con lớn lên thì Chuột bố già cả đã lìa đời rồi. - Mẹ ơi, - Chuột con nói, - mẹ sắp xếp đồ đạc cho con để con đi tìm hạnh phúc! - Có gì đâu mà sắp xếp, hả con? Trong nhà trống không, con có thế nào thì cứ đi như thế! Con chẳng lạc đâu vì con của mẹ có còn nhỏ nữa đâu! Chuột con chia tay với mẹ và ra đi. - Ê, Chuột con ơi, tớ cũng cùng đi với cậu! Cả hang gấu xôn xao. - Mẹ không cho con đi đâu cả, - Gấu mẹ thét lên. – Ngoài trời ẩm ướt, lạnh lẽo, con bị ốm mất thôi... Gấu con dỗi mẹ, nằm ngửa, chân đạp đạp lên trời: - Nhưng con muốn đi! Muốn đi mà! Khổ quá! Không được đi, Gấu con có thể bị ốm mất. Lúc đó, họ nhà gấu mới sửa soạn đồ đạc cho Gấu con lên đường. Xếp cả cái hạnh phúc của gấu con, của gấu mẹ, xếp tất cả những gì có trong hang vào tay nải. È cổ, Gấu con mới khoác nổi lên vai. - Chuột con ơi, cháu hãy chú ý đến nó nhé, - Gấu mẹ nói. – Cháu thấy không, trông nó có tội nghiệp thế cơ mà... Chuột con và Gấu con lên đường. Gấu con khệ nệ vác cái hạnh phúc của mình, còn Chuột con tay không thì thoăn thoắt chạy. Con đường gập ghềnh khó đi, không cẩn thận là vấp trẹo cẳng ngay. Còn phải ngủ ngoài trời nữa... Chuột con đã từng quen chịu khổ như thế rồi, chứ Gấu con thì thật bực mình, vì nó có cái hạnh phúc cơ mà! Phải vác mệt lắm! - Cái hạnh phúc của cậu tốt lắm, - Chuột con nói. – Sao cậu không trải nó xuống dưới mà nằm, đỡ phải nằm ngủ trên đất ẩm ướt. - Thôi đi! - Gấu con lầu bầu. - Cậu đừng có mà chỉ huy tớ! Rồi hai đứa đi tiếp, đi rất lâu. Chuột con dù đã chịu khổ quen vẫn thấy mệt, còn Gấu con thì mệt lử cò bợ. Trên đường chúng gặp phải một khe hẻm dài và sâu. Gấu con không dám nhảy qua vì sợ đánh mất cái hạnh phúc. Còn Chuột con thì chẳng có gì để mất cả, thế là “một-hai”... cu cậu chạy ngay sang bờ bên kia. - Ơ hay! Sao cậu lại đứng đấy? Gấu con xấu hổ, không muốn nói thật ra rằng nó đang ôm cái hạnh phúc của mình. Nó nói: - Chuột con ạ, cậu cứ đi tiếp, còn tớ không muốn đi nữa. Chắc tớ quay trở về nhà thôi. Gấu con thất thểu trở về nhà. Nó lê bước rất lâu. Nhiều đường quá, nó không biết đi đường nào, phải rẽ ở cánh rừng nào. Nó đi không đúng đường, rẽ không đúng rừng, và thế là bị lạc. Nó ngồi trong một khu rừng lạ, mà thời gian thì trôi nhanh. Chẳng mấy chốc mùa đông đã đến. Cần phải đào một cái hang để tránh mùa đông, nhưng đào thế nào đây? Nó không biết bắt đầu như thế nào, đào từ phía trên hay moi từ dưới. Tuyết rơi, rồi băng giá mỗi lúc một dữ dội. Gấu con ngồi run cầm cập trên cái hạnh phúc của mình. Nó run, run mãi và sau đó ngừng run. Nó nằm và không còn thở nữa. Nó chết cứng! Nó nằm ở đây, còn cái hạnh phúc của nó thì nằm ở kia... Thoạt nhìn có thể nghĩ là nó chết vì hạnh phúc, nhưng thật ra không phải thế. Nó chết không phải vì hạnh phúc mà vì lạnh. Còn Chuột con đi một thời gian rất lâu. Thật ra, nó không tìm thấy hạnh phúc, mà tìm được thứ khác... Nó trở thành bố chuột vì nó đã có một thằng con trai – ôi, thật là niềm vui khôn tả! Chuột bố, theo gương cha ngày trước, cũng lại đi đến lão phù thuỷ cầu xin hạnh phúc. Không phải cho mình mà cho cậu con trai - cũng dễ hiểu thôi. Chuột bố cũng đứng xếp hàng, cầu xin. Và cũng lại như Chuột ông, Chuột bố trở về tay không. - Ôi, tai hoạ chưa! - Chuột vợ khóc. – Con trai chúng ta chẳng có hạnh phúc! - Mẹ nó ơi, có sao đâu mà! Cái chính là chúng ta có con trai. Tôi đã từng sống không có cái hạnh phúc thì chắc là nó cũng sống được. “Tôi đã từng sống không có cái hạnh phúc...” - Chuột bố nói xong và cười sung sướng, cái cười đầy hạnh phúc.

Bây giờ, xin nói đến vấn đề biết nghe. Có lẽ bạn thấy lạ, nhưng nghe cũng phải biết cơ đấy. Ở đây có những quy tắc rất đơn giản nhưng không phải ai cũng biết và áp dụng được. Đó là những quy tắc nào? 1) Không ngắt lời người nói. 2) Hãy để cho người ấy nói hết. Nhất là khi người ấy đang xúc động hay anh ta có chuyện gì không may xảy ra hoặc có điều gì không hài lòng về bạn. 3) Đừng thay cho người đối thoại mà kết thúc câu nói của anh ta, ngay cả khi bạn tin chắc là mình rất hiểu người ấy và biết được anh ta sắp nói gì. 4) Thỉnh thoảng hãy tỏ dấu hiệu cho người nói biết rằng bạn đang chăm chú nghe người ấy. Có thể chỉ bằng những cái gật đầu, mà hay hơn nữa là dùng những từ cảm thán như: “Thế hả?”, “Phải thế chứ!”, “À há!”, “Ừ ừ!”, “Tôi nghe đây!”, v.v... Đặc biệt quan trọng là phải làm cho người nói hiểu được rằng bạn đang nghe người ấy khi người ấy không nhìn thấy bạn và phản ứng của bạn. Đây nói về điện đàm. Khi nói điện thoại thì không thể gật đầu hay bắt tay được, mà rất cần dùng những từ cảm thán bày tỏ tán đồng hay thích thú để người đối thoại thỉnh thoảng khỏi phải hỏi: “Bạn nghe tôi nói chứ?”. 5) Khi nghe xong người đối thoại, hãy đặt những câu hỏi đúng với tình huống, trước hết là những câu hỏi bày tỏ sự quan tâm của bạn đối với những xúc cảm của người ấy. Ví dụ như: “Điều ấy làm bạn buồn phiền lắm hả?”, “Có lẽ bạn không muốn kể điều ấy cho người khác chăng?”; “Mình thấy rằng tất cả điều này làm bạn khó chịu. Thôi hãy tạm quên đi, có lẽ bạn với mình đi chơi đâu đó cho khuây khoả chăng?” Nếu bạn theo những quy tắc đơn giản này thì một điều rất lạ là bạn nhanh chóng được coi là người bạn tâm tình và biết thông cảm người khác và nhiều người sẽ sẵn sàng tâm sự với bạn. 6) Hãy biết tận dụng (tất nhiên đừng lạm dụng) chỗ ngừng giọng trong cuộc nói chuyện. Đừng tỏ ra bạn sẵn sàng trả lời câu hỏi ngay lập tức - điều đó làm người đối thoại nghĩ là bạn có tính nịnh bợ hay nhẹ dạ. Đừng sợ những chỗ ngừng giọng, vì chúng cho phép bạn suy nghĩ chín chắn hơn và trả lời có căn cứ, có lý lẽ và đầy đủ hơn. Mặt khác, nhờ những chỗ ngừng giọng, bạn tạo cho người đối thoại cảm tưởng mình là người nghiêm túc, chín chắn, có suy nghĩ về điều mình nói, chứ phải là người lời nói gió bay.

Sau đây là một chuyện tiếu lâm nữa. Bạn hãy suy nghĩ xem các nhân vật trong chuyện có hiểu nhau không? Khi chuyện trò, những người này đều nói, nhưng thật ra họ có nghe nhau không?

Một người đàn ông đi nghỉ ở Thổ Nhĩ Kỳ về. Bạn ông ta hỏi: - Đi nghỉ ở Thổ thế nào? - Thật hết sức tuyệt vời! Biển thì đẹp vô cùng rồi, có biết bao nhiêu trò vui chơi giải trí, hàng hoá thì đầy rẫy và rẻ, chỉ có dở một điều là nóng quá - bốn mươi độ trong bóng râm. - Dốt thật! Ai bắt cậu phải ngồi trong bóng râm cơ chứ?

NHỮNG BÍ QUYẾT CỦA GIAO TIẾP

Trên bãi tắm, một thiếu phụ đến gần người đàn ông không quen biết và nói: - Xin lỗi, anh trông rất giống người chồng thứ ba của em quá! - Thế ư? Thế cô em có mấy chồng tất cả? - Hai.

Tâm lý giao tiếp là cả một khoa học. Nhưng ở đây, tôi chỉ muốn đưa ra cho các bạn một vài lời khuyên đơn giản và thực dụng. Chúng ta thường thấy người ta, nhất là những bạn trẻ không khéo léo giao tiếp với nhau, không biết những quy tắc lịch sự và giao tiếp sơ đẳng nhất, vì thế ngay từ phút đầu tiên tạo ra cảm tưởng khó chịu ở người đối thoại. Thế mà có khi đời con người phụ thuộc vào một vài cuộc nói chuyện. Sau đây là những lời khuyên: 1) Trong cuộc nói chuyện, nhất là cuộc nói chuyện có tính chất chính thức, thỉnh thoảng nên gọi người đối thoại bằng tên và phụ danh (tức là tên của bố có biến âm chút ít, đây là cách gọi lịch sự và kính trọng của người Nga - ND). Điều đó làm người đối thoại cảm thấy dễ chịu và tăng sự chú ý đến những điều bạn nói. Nhưng khi phát âm một tên nào đó khó thì đừng để bị vấp váp vì điều đó làm người đối thoại khó chịu. Nếu sắp có một cuộc nói chuyện quan trọng mà tên người đối thoại lạ và khó nói trôi chảy thì bạn nên luyện trước (như người nghệ sĩ luyện nói những câu nói liến thoắng) và khi vào nói chuyện thì phát âm một cách trôi chảy cứ như là bạn đã biết cái tên này từ nhỏ. Cố nhiên, ở các dân tộc khác nhau có những tập tục và kiểu cách riêng của phép lịch sự để biểu lộ lòng kính trọng, quý mến, thân yêu, v.v... Chẳng hạn, ở Việt Nam, để tỏ lòng kính trọng thì cần dùng những từ, như “thưa”, “kính”, “kính thưa”, “bạch”, “trình”, v.v... dùng những tiếng đệm, như “ạ”, “vâng ạ”, “dạ”, v.v... Tuỳ theo tuổi tác người đối thoại, phải biết chọn đúng đại từ nhân xưng và cách xưng hô thích hợp, như “cụ – cháu”, “bác – cháu”, “chú – cháu”, “thầy – con”, “thầy – em”, “cô – cháu”, “cô – em”, v.v... Khi nói những từ này cũng phải biết cách thay đổi giọng thích hợp để biểu lộ tình cảm của người nói đối với người nghe. Như thế người đối thoại thấy dễ chịu, tăng thêm thiện cảm với người nói, tăng thêm sự chú ý tới những điều anh ta đưa ra. 2) Trong lúc nói chuyện hãy lưu ý khoảng cách bình thường giữa bạn và người đối thoại. Khoảng cách này tuỳ thuộc vào lứa tuổi của người đối thoại, vào quan hệ với người ấy và thậm chí dân tộc của người đối thoại. Chẳng hạn, người các nước miền Nam châu Âu khi nói chuyện đứng gần nhau hơn người miền Bắc. Dễ hiểu là phải đứng gần khi nói chuyện với ông bà già và trẻ con hơn là với ông hiệu trưởng trường phổ thông. Điều này hợp lý, vì giao tiếp với trẻ em, nhất là trẻ nhỏ thường có tính chất thân mật, còn người già thì hay nặng tai, mắt kém, nếu người đối thoại đứng xa thì sẽ trở ngại cho sự giao tiếp và làm họ khó chịu. Khi giao tiếp thân mật, người ta thường đứng ở khoảng cách chừng nửa mét, còn khi giao tiếp có tính chất chính thức thì đứng cách từ một mét trở lên. Đừng chìa mặt mình đến trước mặt người đối thoại vì điều ấy có thể gây hiểu lầm hay khó chịu (nhất là nếu hôm qua, bạn có ăn tỏi). Tất nhiên, khi bạn đang bị ho, sổ mũi hay cảm cúm và hơn nữa là bệnh phổi thì lại càng không nên đứng gần. 3) Đừng lạm dụng nước hoa và đừng dùng nước hoa có mùi quá nồng nặc, vì hiện nay số người bị dị ứng ngày càng nhiều. Thật tai vạ, nếu cái mùi tỏa ra từ bạn khiến người đối thoại nổi mẩn lên, phát ho hay khó thở thì làm sao người này có thể có cảm tình với bạn, và cố nhiên, không thể có cuộc nói chuyện bình thường được. Người này sẽ tìm cách tránh xa bạn càng nhanh càng tốt và không bao giờ muốn gặp lại nữa. Mà khốn thay, bạn đến gặp người này chính là để xin việc chỗ ông ta! 4) Hãy cố gắng nói với nhịp độ vốn có của người đối thoại. Nếu anh ta là người có tính lạnh nhạt, thường nói và hành động chậm chạp thì đừng nói nhanh và liến thoắng trước mặt người ấy. Với người như thế, đừng sợ phải lặp lại (khi cần nhắc lại những điều đã nói, thì phải dùng những từ khác đi mà thôi). Nếu người đối thoại nhanh nhẹn, hoạt bát và quyết đoán thì đừng làm anh ta bực mình vì những lời nói thừa, lặp đi lặp lại với nhịp độ nói chậm chạp và nhiều chỗ ngừng giọng. 5) Người đối thoại với bạn sẽ cảm thấy thoải mái hơn, khi bạn ở bên trái người ấy (tất nhiên, nếu anh ta không phải là người thuận tay trái). 6) Để giao tiếp tốt hơn nên tránh tạo ngăn cách giữa bạn và người đối thoại, cho nên ngồi ở bàn nói chuyện công việc thì tiện hơn, đừng ngồi đối diện nhau mà nên ngồi bên cạnh để tạo thành góc vuông, và tốt nhất ngồi ở bàn tròn hay bàn bầu dục. Nhân thể xin nói thêm là ngồi cùng một hàng cũng không phải là thuận lợi nhất để nói chuyện. 7) Đừng nên tạo sự ngăn cách giữa hai người bằng cách vòng tay trước ngực hay những vật thể khác (như cái cặp giấy tờ ôm trước ngực hay cánh tay giữ cuốn sách chìa ra phía trước, v.v...). 8) Đừng nên dùng những động tác khiến cho người đối thoại nghĩ rằng đó là những cử chỉ thù địch (hai bàn tay nắm lại thành quả đấm, hai tay vung vẩy). Nếu có thể nên giữ bàn tay mở và hướng về phía người đối thoại. 9) Nếu bạn hoàn toàn không đồng ý với người đối thoại thì không được bộc lộ sự tức giận, điệu nói sỗ sàng hay đả kích cá nhân. Hãy phê phán lập trường của anh ta, chứ không phải cá nhân anh ta. Tốt nhất là lúc đầu bạn nên nhấn mạnh những điểm chung của bạn và người đối thoại (như cùng phe phái, quyền lợi, sở thích, tình bạn, quan hệ họ hàng), và sau đó mới chuyển sang nói về những ý kiến bất đồng. Điều khó chịu nhất nên nói ở cuối. 10) Khi nói chuyện hãy nhìn vào mặt người đối thoại, nắm bắt được từng cái nhìn, nhận thấy được từng phản ứng của người đó đối với lời nói của bạn. Tất nhiên, điều này không có nghĩa là phải ăn tươi nuốt sống anh ta bằng mắt mình, nhưng nếu bạn cứ nhìn xuống đất, đưa mắt đi chỗ khác hay đảo mắt liên tục thì chắc chắn là người đối thoại sẽ khó chịu và thiếu tin tưởng ở bạn. Lúc phát biểu trước công chúng cũng phải tuân theo quy tắc vừa nói. Khi đứng trước bảng đen, trên bục giảng hay trên sân khấu, thì đừng nên cắm mặt nhìn xuống sàn hay tờ giấy ghi thuyết trình của bạn. Thời xưa, Piôt Đại Đế còn cấm các vị đại thần không được đọc theo bài ghi sẵn, và ra lệnh cho họ phải nói bằng lời của mình “để có thể bộc lộ rõ sự ngu đần”. Khi bạn phát biểu, thỉnh thoảng phải nhìn xuống người nghe, nhưng đừng có nhìn xoáy vào mặt ai đấy khiến người đó ngượng nghịu, mà hãy nhìn người này người khác theo các hướng khác nhau trong phòng. Điều này giúp bạn tạo được bầu không khí thân mật hơn với người nghe, giúp họ hiểu bạn tốt hơn, chăm chú nghe lời bạn nói, những kết luận, khẩu hiệu hay lời kêu gọi của bạn. 11) Nên nhớ rằng kiểu bắt tay cũng nói lên nhiều điều về con người. Có những chuyên viên về nhân sự khi chọn các ứng viên cho chức vụ này hay chức vụ khác thường đánh giá kiểu bắt tay của những người ấy. Kiểu bắt tay nồng nhiệt và thân thiện được đánh giá cao, còn kiểu bắt tay yếu ớt, uể oải hay là quá mạnh, quá thô thường không mấy ai thích. Ngoài ra, khi bắt tay thì đừng chìa ra chỉ mấy ngón tay mình cho người khác bắt, cũng như đừng bắt tay người khác chỉ với mấy ngón tay của mình: khi bắt tay nhau thì phải nắm cả bàn tay. 12) Cần có dáng điệu đường hoàng và hùng mạnh, đi đứng chững chạc, đừng gù lưng, vung vẩy tay, lê giày lệt xệt. Theo vẻ ngoài của bạn, người có kinh nghiệm dễ dàng đánh giá được tính tập trung, ý chí, tâm trạng và thậm chí cả sức khỏe của bạn nữa. Bạn nghĩ thế nào, ai gây nên nhiều cảm tình hơn và ai sẽ là người được nhận vào làm việc trước hết (với điều kiện cùng lứa tuổi và trình độ nghề nghiệp như nhau): một người lòm khòm, uể oải, mệt mỏi, mặt mày ảm đạm, chân đi thì lê bước lệt xệt, bắt tay thì gây cảm giác như cái giẻ ướt hay con cá ươn (cho dù người đó có nói năng hùng hồn như nhà hùng biện Cicéron chăng nữa!) hay là một người dáng điệu đường hoàng, đầu ngay ngắn, chững chạc, khuôn mặt cởi mở, lưng thẳng và kiểu bắt tay nồng nhiệt? Thế là rõ! Vì vậy, từ những điều nói trên, bạn hãy rút ra những kết luận cần thiết và luôn luôn phải tưởng tượng xem dáng điệu của bạn như thế nào dưới con mắt người ngoài, cảm tưởng của người đối thoại về bạn ra sao, nhất là khi bạn chuẩn bị cho cuộc nói chuyện quan trọng.

NHỮNG VA CHẠM, XUNG ĐỘT VÀ CÁCH ỨNG XỬ

- Bố ơi, con muốn ăn bánh nướng! - Mày thì cái gì chẳng muốn! Có lẽ tao cũng muốn ăn bánh nướng, nhưng tao khó lắm mới đủ tiền mua nổi chai rượu vodka.

- Em thân yêu, anh chẳng thích cái mũ em đội chút nào! - Em rất hiểu, anh ạ, nhưng em không thể đội trên đầu cái chai vodka thay cho mũ được!

Như đã nói trên, cách giải quyết tốt nhất những va chạm, xung đột, tất nhiên, là cố gắng tránh nó, bằng mọi cách xa lánh nó.

- Thưa ngài, ngài có thể giải thích tại sao đã năm năm ngài không nói chuyện với quý phu nhân? - Chỉ vì tôi là người lịch sự, nên tôi không muốn cãi nhau với bà ấy.

Mặc dù người ta đều biết điều trên, nhưng không vì thế mà những va chạm, xung đột trên thế giới lại giảm đi – đó là những va chạm, xung đột giữa các quốc gia, trong nội bộ một nước, giữa các đảng phái và trong nội bộ đảng, trong xã hội, trong tập thể, giữa những người hàng xóm, bạn bè, giữa các thành viên trong gia đình, giữa hai thế hệ cha và con. Có lẽ là sự phát triển của xã hội sẽ dừng lại, nếu không có mâu thuẫn, không có va chạm, xung đột. Có một ngành khoa học riêng có tên là xung đột học cho rằng một số va chạm, xung đột là cần thiết (hay ít ra là không thể tránh khỏi) và cho rằng có những va chạm, xung đột có ích, có tính chất xây dựng và chúng cho phép giải quyết những vấn đề nảy sinh. Các bạn trẻ thường có nhiều va chạm, xung đột hơn những người khác. Trước hết, bởi vì họ chưa học được cách giao tiếp, thoả thuận, tránh những “mắc mứu”, chưa biết giải quyết va chạm, xung đột, và cũng bởi vì họ thường còn phụ thuộc vào người lớn. Các bạn trẻ chưa có gì, cả nhà cửa, cả địa vị, cả nguồn thu nhập mà những người lớn tuổi thường đòi hỏi ở họ những cái mà họ hoàn toàn không muốn làm. Tâm lý bạn trẻ vẫn chưa hình thành hẳn, họ chưa học được cách đấu tranh bảo vệ bản thân, “cái tôi” của mình, bảo vệ những quan điểm hay hạnh phúc của mình (anh ta vẫn còn có quan niệm mơ hồ về hạnh phúc và cái quan niệm đó thường không hợp với quan niệm của cha mẹ và ông bà anh ta). Điều này giải thích tại sao ở các bạn trẻ thường có những chấn động thần kinh, sự hung hăng hay thất vọng, và thậm chí có khi họ tự tử. Chính vì thế, mối tình đầu thường hay tan vỡ. Nhưng, dù sao mối tình đầu cũng rất có lợi, bởi vì nó dạy con người biết cảm tình, xúc cảm, yêu thương sâu hơn và học cách tìm hiểu nhau với người khác giới. Nhờ đó, người trẻ trưởng thành nhanh hơn, học cách sống và đấu tranh vì tình yêu của mình. Cả điều này cũng phải học nữa đấy, nếu không, bạn cả đời cũng chỉ là đứa bé con mà thôi! Cuốn sách này không phải là một công trình khoa học hay là cuốn sách về xung đột học, cho nên có nhiều vấn đề trong sách thậm chí không được đề cập đến. Tôi chỉ đưa ra vài lời khuyên thực dụng nhằm giúp bạn sống giữa thế giới người lớn và các bạn cùng tuổi, đồng thời giúp bạn dễ dàng giao tiếp và hiểu biết lẫn nhau với những người xung quanh. Như thế có nghĩa là điều ấy sẽ giúp bạn có hạnh phúc thêm một chút. Không phải ngẫu nhiên có những người cho rằng “hạnh phúc là khi được người khác hiểu mình”. Xin nói trước rằng, ở đây tôi không viết về những va chạm, xung đột, đại loại như một người dùng dao lao vào đâm người khác, hay một người nào đó giết vợ mình hay chồng mình bằng rìu trong cơn say, một nhóm du côn đánh một học sinh trên sân để lấy tiền, áo khoác hay cái xe đạp của học sinh này. Xử trí những cuộc va chạm, xung đột này là việc của cảnh sát. Chúng không liên hệ tới việc giải quyết quan hệ bằng con đường nói chuyện và đàm phán mà phải áp dụng luật hình sự. Những lời khuyên của tôi nói về những chuyện cãi cọ, mâu thuẫn “bình thường”, việc giải quyết mối quan hệ giữa những người tâm thần bình thường, chứ không phải giữa những kẻ nghiện rượu hay tội phạm hình sự. Tuy nhiên, cả trong những tình trạng gay go như vậy vẫn có những người thoát được tai nạn nhờ tính nhanh trí, tài miệng lưỡi của họ, nhờ cách biết dùng lời lẽ sắc bén, nhẹ nhàng và ý nhị mà ngăn chặn được kẻ tấn công. Bạn đọc sẽ tìm thấy những ví dụ ở chương “Phụ lục: Những câu đố tâm lý”. Nếu bạn chỉ thấy con đường giải quyết một vụ xung đột nào đó bằng cách đấm vào mõm một ai đấy (tôi hiểu rằng một số vụ xung đột, nhất là trong đám thanh niên hung hăng, ngổ ngáo khó có thể giải quyết bằng cách khác), thì hãy dừng lại và đừng đọc tiếp làm gì nữa - những lời khuyên của tôi chẳng có ích lợi mấy đâu, bởi vì những lời khuyên đó chỉ áp dụng cho những vụ va chạm, xung đột kiểu khác, “bình thường” hơn, “văn minh” hơn.

  • * *

Cứu người sắp chết đuối là do tay người sắp chết đuối. - Kozma Prutkov

Sau đây là những lời khuyên của tôi để giải quyết vụ va chạm, xung đột. Những lời khuyên có lợi cho mọi người ở bất kỳ lứa tuổi nào, chứ không phải chỉ riêng cho các bạn trẻ:

1) Cũng như khi đánh giá bất kỳ tình huống nào (hoàn cảnh sinh sống, việc lựa chọn nghề nghiệp hay trường đại học, v.v...), bạn nên dừng lại và suy nghĩ. Hãy tiếp cận với vụ va chạm, xung đột “của mình” một cách có ý thức, có phân tích và sáng tạo. Hãy lấy tờ giấy và ghi tất cả những phương án giải quyết. Chẳng hạn, trong trường hợp có nguy cơ ly dị: a) làm lành, sau khi nhân nhượng một ít; b) làm lành với điều kiện đầu hàng; c) ly dị hẳn; d) dọa ly dị và đòi phải có những nhượng bộ đáng kể; e) bắt đầu ve vãn bạn gái của vợ (hay nữ đồng nghiệp, cô hàng xóm); f) tạm bỏ về nhà mẹ đẻ và chờ đợi; g) ghi tên đi thám hiểm địa chất (khảo cổ, vũ trụ, bắc cực) và đi xa để cho anh ấy (cô ấy) phải đau khổ vì thiếu mình và lúc đó sẽ dễ nhân nhượng hơn; h) ngồi vào bàn cùng với chồng (vợ) và bình tĩnh thảo luận và phân tích tình hình, chọn lựa phương án giải quyết; i) cứ để mọi sự nguyên như cũ và tiếp tục va chạm cả ngày lẫn đêm từ năm này qua năm khác, v.v và v.v... Nhân thể nói thêm, dưới thời xô-viết trước đây, còn có cả phương án viết đơn lên đảng bộ Đảng cộng sản tại nơi làm việc của người vợ (hay chồng) để tố cáo và thưa kiện! Có thể có nhiều phương án, có khi hoàn toàn bất ngờ đối với bạn, để giải quyết bất kỳ vụ va chạm, xung đột nào. Cái chính là: đừng để cơn giận đầu tiên trào dâng trong bạn chi phối, đừng mất bình tĩnh, và đừng để cơn thịnh nộ, lòng thù ghét, sự tuyệt vọng, nỗi sợ hãi và những tình cảm có tính chất phá huỷ khác chi phối, mà phạm sai lầm không thể sửa được. Trái lại, bạn hãy chuyển lên cấp độ khác - cấp độ phân tích, suy xét và điều khiển vụ va chạm, xung đột. Mỗi phương án giải quyết nên viết phía trên tờ giấy riêng, như một nhan đề. Sau đó, hãy chia tờ giấy ra làm đôi bằng dòng kẻ dọc tạo thành hai cột. Trong mỗi cột, ghi những kết quả tốt và xấu có thể xảy ra với phương án này để giải quyết vụ va chạm, xung đột. Sau đó, cân nhắc xem phương án nào là tối ưu và phương án nào là bất lợi nhất. Thật ra trong cuộc đời không phải mọi sự đều đơn giản như trên giấy. Nhưng có lẽ cuộc đời hay ở chỗ là bao giờ cũng có những điều bất ngờ xảy ra chăng? Cách phân tích trên chưa tính đến cái gì? Chưa tính đến lợi ích của những người khác. Nếu bạn cãi nhau với vợ thì phải tính đến lợi ích của con cái nữa. Nếu như có chuyện va chạm với cha mẹ thì bạn nên nhớ rằng ông nội đang bị bệnh cao huyết áp, qua vụ căng thẳng thần kinh này có thể bị ốm nặng (hay thậm chí bị chết), còn nếu bạn cãi nhau với láng giềng của bạn thì người ta có thể bỏ bả khiến con chó của bạn bị trúng độc... Bây giờ, khi bạn nhìn thấy trước được phương án này hay phương án khác có hậu quả gì đối với bạn và những người thân, thì bạn có thể chọn phương án thích hơp nhất. Nhưng nên nhớ, lựa chọn phương án giải quyết, mới là bước đầu thôi. Tiếp đến, bạn phải tìm cách làm sao cho vụ va chạm được giải quyết theo đúng phương án bạn đã chọn. Muốn thế, phải hành động một cách thông minh, tìm đồng minh cho mình, viện đến những lý lẽ và tình cảm có thể khiến cho đối phương chấp nhận được. Cho nên hãy sáng tạo, suy nghĩ và thử nghiệm đi. Nếu như lần này giải quyết vụ va chạm, xung đột không có lợi cho bạn thì đừng thất vọng. Dù buồn mấy chăng nữa, thất bại cũng có lợi cho bạn: hãy rút kinh nghiệm từ những sai lầm của mình và lần sau cố gắng không lặp lại nữa. Như chúng ta đã biết, chỉ có ai không làm gì cả mới không phạm lỗi lầm, hay có thể nói một cách khác, chỉ có người chết mới không phạm lỗi lầm mà thôi. Người ta thường nói: những lỗi lầm của bản thân không làm kẻ ngu ngốc khôn hơn, người bình thường học từ những lỗi lầm của mình, người thông minh học qua sai lầm của người khác, còn người thông thái... không có lỗi lầm. Thật ra nếu có gặp được người thông thái trong số chúng ta đi chăng nữa thì chắc cũng rất là hãn hữu. Trường hợp sau cũng thường xảy ra: bạn không hài lòng với cách giải quyết này hay giải quyết khác, vì muốn giải quyết hoàn toàn theo cách khác, nhưng thời gian trôi qua, tình hình hay thái độ của bạn thay đổi khiến cho bạn thấy cách giải quyết này là tối ưu đối với bạn. 2) Đừng có va chạm, xung đột vì những lý do không đâu. Lẽ nào bạn cãi cọ nhau chỉ vì có ai đó thích màu đỏ, trong khi bạn lại thích màu xanh chăng? Người ta nói “chín người mười ý” cơ mà! Thế thì việc gì phải va chạm, xung đột nhau, chỉ vì một người thích phe dân chủ, người khác thích phe xã hội, người thứ ba thích tiểu thuyết siêu thực, người thứ tư thích tranh trừu tượng, người thứ năm thích nhạc rock, người thứ sáu thích nhạc jazz, thích ăn chay, thích nhuộm tóc màu, thích đeo vòng ở tai, thích đua xe máy, v.v... và v.v... Chẳng lẽ bạn muốn tất cả mọi người quanh bạn đều giống hệt như chính bản thân bạn hay sao? Muốn họ cũng ghét môn hoá, nhạc cổ điển, kinh kịch Trung Quốc, món cá đông, nhưng lại mê tít nhạc kích động, đeo vòng ở tai, uống Coca Cola và đi giày trượt trên đường như bạn hay sao? Thật là buồn khi phải sống trong một thế giới như vậy, phải không bạn!? Cuộc sống quanh ta thú vị chính vì có đủ loại người khác nhau và họ bắt buộc phải thoả thuận với nhau để chung sống. Còn nếu như tất cả mọi người đều như nhau thì đó hoặc là một kiểu như trại lính, hoặc là không còn cuộc sống trên trần gian chúng ta, mà là địa ngục hay thiên đường. Cho nên tôi khuyên bạn không nên va chạm, xung đột nhau (và nhất là đừng cố tình gây ra chuyện đó) khi tham dự vào các cuộc tranh luận về chính trị, về các sự kiện và nhân vật lịch sử mà ý kiến người ta hết sức đối lập nhau, cũng như khi đi cổ động cho đội bóng đá mà bạn thích... Tất nhiên, bạn có thế tham dự vào những việc đó, nhưng phải giữ bình tĩnh, đừng bị kích động quá, đừng điên cuồng đến mất trí, và cũng đừng tìm cách cố thắng bằng được người đối lập của mình. Buộc ai phải thay đổi ý kiến là một việc rất khó và thường là không thể làm được. Đừng có tưởng mình là nhà tiên tri, nhà giáo dục hay nhà hùng biện Cicéron. Hãy để cho mỗi người giữ ý kiến riêng của họ. Chẳng lẽ bạn lại muốn vì những bất đồng về chính kiến và những dị biệt khác, những điều không liên quan gì đến quan hệ cá nhân giữa bạn với người nào đó mà số bạn bè của bạn giảm xuống hay thậm chí còn xuất hiện cả kẻ thù nữa chăng? Điều này thật là ngu ngốc – đánh mất bạn bè và làm tăng thêm thù địch của mình bằng chính những nỗ lực của mình, phải không? Đừng coi những quan điểm và sở thích của người khác đối nghịch với bạn như là một điều sỉ nhục đối với mình. Tất nhiên, bạn cũng có thể bày tỏ quan điểm và sở thích riêng, nhưng phải thật bình tĩnh và không liên quan gì đến cá nhân người đối thoại. Nếu bạn thấy thật sự cần thiết thì hãy phê phán hay phủ nhận quan điểm của người đối thoại, nhưng đừng đụng đến cá nhân người đó và đừng tỏ ra ác cảm của mình đối với anh ta. Giọng nói của bạn không được biểu lộ sự thịnh nộ, bực tức hay căm ghét. Hãy dùng giọng nói và điệu nói cho thích hợp. Nhưng nếu cuộc tranh luận đến mức quá hăng, quá gay gắt thì tốt hơn là phải chấm dứt nó, không tranh luận tiếp nữa, hãy thay đổi đề tài nói chuyện hay viện cớ nào đó bắt chuyện với người khác. Thêm nữa, hãy nhớ điều này: trong cuộc tranh cãi, chắc là cả bạn lẫn người đối thoại đều không hoàn toàn đúng, mà cái chân lý cuối cùng thực ra phải nằm đâu đó ở giữa. Hơn nữa, người nào hay va chạm, xung đột, nhất là vì những chuyện không đâu, không tự chủ được mình, thường là người mắc bệnh tâm thần hay thiếu giáo dục, mà cũng có thể là đồng thời bị cả hai thứ đó. Những người xung quanh thường coi họ là kẻ thần kinh bất thường, mặc cảm thái quá, không lành mạnh, và ai cũng cố lánh xa họ. Lẽ nào trong số các bạn có ai muốn ở vào hoàn cảnh của những người ấy chăng? Và thường thì những người đó dễ bị những tay đùa tếu hay kẻ thù của họ khiêu khích, vì chính họ bao giờ cũng sẵn sàng nổi xung lên, và vô tình làm con rối trong tay kẻ khác. Còn khi đã đứng tuổi (thậm chí, cả khi chưa đến tuổi đó) những người ấy dễ bị nhồi máu cơ tim hay cơn cấp phát do chính họ gây ra!

Vợ nói với chồng: - Em có hai tin mới báo anh biết - một tin vui và một tin buồn. - Nào, nói cho anh nghe đi! - Em sẽ bỏ anh. - Thế à? Thế cái tin nào là buồn?

3) Nếu bạn tranh cãi hay va chạm, xung đột với ai đó thì thoạt tiên nên để cho người đó nói hết để nguội cơn giận. Đừng nên cắt lời hay dừng lời anh ta. Hãy lắng nghe anh ta nói, trong lúc đó cứ suy nghĩ câu trả lời, cách phản bác và những lý lẽ để biện hộ cho mình. Nhưng sau đó khi đến lượt bạn nói thì cũng đề nghị anh ta chăm chú lắng nghe bạn và không cắt lời giữa chừng. 4) Trong cuộc va chạm, xung đột không nên hướng về quá khứ. Bám vào quá khứ là không có tinh thần xây dựng, cản trở việc giải quyết va chạm, xung đột và làm hai bên thêm tức giận. Hãy cùng với đối phương nhìn về phía trước và đừng nghĩ về những mối hiềm khích mà nên nghĩ về cách giải quyết mối bất hoà. Hãy cùng nhau phân tích tình hình và tìm cách giải quyết vụ va chạm, xung đột. 5) Đừng đưa ra ngay phương án giải quyết của mình cho đối phương biết. Hãy cùng ngồi và yêu cầu anh ta nghĩ ra, để tự anh ta cầm bút ghi những điều đại loại bạn đã chuẩn bị sẵn rồi. Cứ để cho anh ta cân nhắc tất cả các phương án và để anh ta tin rằng tất cả những điều anh ta ghi là ý kiến của anh ta do chính bản thân anh ta nghĩ ra. Giấy bút sẽ buộc anh ta phải giao tiếp một cách văn minh hơn và làm cơn nóng giận của anh ta nguôi đi (chẳng lẽ anh ta lại viết những câu sỉ nhục nhau trên giấy?!), sự giao tiếp lúc đó có tính chất xây dựng hơn. 6) Về phần mình, hãy phân tích tình hình để hiểu nguyên nhân sâu xa của vụ va chạm, xung đột. Bề ngoài có thể chỉ là một nguyên cớ nào đó, nhưng nguyên nhân chính lại hoàn toàn khác. Nhiều khi nguyên nhân của vụ va chạm, xung đột là tình cảm ẩn sâu trong lòng con người, chẳng hạn, lòng đố kỵ, ghen tuông, tham lam, tham vọng cực độ, ích kỷ, tự ái đến mức bệnh hoạn, v.v... Nếu bạn hiểu được nguyên nhân đích thực của vụ va chạm, xung đột thì giải quyết sẽ dễ dàng hơn. 7) Đừng có hạ nhục hay xúc phạm thù địch của mình, hãy biết khéo léo chọn câu chữ khi thương lượng với anh ta. Hãy dùng những câu “đấu dịu”, tránh không bao giờ được dùng những câu khiêu khích. Ví dụ:

Những câu “đấu dịu” Những câu khiêu khích

- Tôi hiểu anh, nhưng... - Sao cậu ngu thế, hả? - Trước đây chúng mình chơi với nhau tốt thế, chẳng lẽ bây giờ lại... - Im đi, nghe mày nói thật chối tai! - Nào, chúng ta hãy cùng nghĩ làm thế nào giải quyết vấn đề này đi. - Cậu chưa bao giờ hiểu được tớ cả! - Chúng ta phải làm gì đây để giải quyết mối bất hoà này? - Cậu thì bao giờ chả muốn làm ầm ỹ! - Anh nghĩ thế nào, có lẽ chúng ta phải... - Cậu chỉ nói vớ va vớ vẩn! - Có lẽ tốt hơn là chúng ta... - Đã bao nhiêu lần mày chơi xỏ tao như vậy rồi! - Người thông minh như cậu chắc có thể hiểu rằng... - Cậu chẳng có tí chút lương tâm nào. - Chẳng bao giờ có thể chờ đợi ở mày điều gì tốt lành cả! - Chính mày là cái thằng như vậy đó! - Chính mày chẳng hiểu cóc gì cả!

Biết cách ngoại giao một chút cũng thật tốt. Nếu thuận lợi, bạn hãy nói vài lời xã giao tế nhị với anh ta về vấn đề hoàn toàn không có liên quan gì đến vụ va chạm, xung đột và không làm câu chuyện nặng nề thêm. Hãy khen anh ta thông minh, đẹp trai, tốt bụng, rộng lòng, khen con cái anh ta dễ thương, khen chiếc xe ô tô, con chó, người vợ, biệt thự hoặc bộ còm lê... của anh ta. Nên nhớ là dù sao những lời nói xã giao phải đúng chỗ, có chừng mực, không gượng gạo, không giả dối, không nịnh bợ và phải có tác dụng. Để làm được điều này phải hiểu phần nào tâm lý người đối thoại và phải biết được lời xã giao nào làm cho anh ta dễ chịu nhất. Sau đó mới chuyển sang những đề nghị cụ thể tốt nhất đối với bạn. 8) Nếu bạn muốn thật sự giải quyết vụ va chạm, xung đột một cách xây dựng và có lợi nhất cho mình thì hãy cố nén lòng tự ái của mình, đừng để đối phương khiêu khích, châm chọc hay thậm chí đe dọa. Bằng mọi cách hãy chuyển vụ va chạm, xung đột sang hướng khác, sang một mức độ khác. 9) Hãy kiên nhẫn. Vụ va chạm, xung đột cũng giống như một ván cờ. Nó gồm nhiều nước đi, người nào biết nhìn xa trông rộng hơn, biết nhìn thấy nhiều nước đi hơn và ai có sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn nhiều hơn thì người ấy thắng. Đừng nghĩ rằng có thể giải quyết vụ va chạm, xung đột một cách chớp nhoáng, trong một lần. Nói chung, cách giải quyết như vậy chỉ là ngoại lệ. 10) Đôi khi phải nhìn vụ va chạm, xung đột bằng con mắt của đối phương để hiểu được tình cảm và nguyên cớ của anh ta. Tiếc rằng, điều đó rất khó và không phải ai cũng làm được. Nguyên nhân gây nên vụ va chạm, xung đột rất có thể chính là lỗi lầm, tính bướng bỉnh, không biết nhìn xa trông rộng, sự thô bỉ, v.v... của bạn chăng? Trong trường hợp đó, bạn phải là người nhượng bộ tối đa và nhận lỗi về mình. Chỉ có người thẳng thắn và dũng cảm mới làm được việc này. 11) Đôi khi, bạn và đối phương không chịu nổi được nhau mà vụ va chạm, xung đột đã đến mức quá trầm trọng, nếu tiếp tục gặp nhau chỉ thêm cãi nhau dữ dội hơn thì nên mời một người thứ ba giúp giải quyết vấn đề. Người đứng làm trung gian phải có kinh nghiệm, trung lập, có thiện chí và được cả hai bên cùng kính trọng. Có nhiều khả năng hai kỳ phùng địch thủ sẽ nghe lời giải thích của người ấy hơn là nghe nhau, và vụ va chạm, xung đột có thể sẽ được giải quyết ổn thoả. 12) Tiếc thay, bạn nên nhớ rằng không có liều thuốc nào cho mọi tình huống trong đời, và giả sử nếu có liều thuốc đó thì cuộc sống đã trở nên quá đơn giản, tiên đoán được và chúng ta có thể gặp những người hạnh phúc ở khắp mọi nơi. Hơn nữa, tôi cũng lấy làm tiếc là có những vụ va chạm, xung đột không thể giải quyết được. Chẳng hạn như nạn khủng bố trong đời sống chính trị, tức là xung đột giữa bọn khủng bố với toàn bộ thế giới còn lại. Còn trong sinh hoạt xã hội, đầu óc bài ngoại, những va chạm, xung đột chủng tộc cũng rất khó giải quyết. Nếu bạn gặp phải những va chạm, xung đột không thể giải quyết được thì phải hiểu điều như vậy và đừng mất thì giờ và sức lực để cố giải quyết làm gì. Bằng mọi cách phải tránh những va chạm, xung đột kiểu ấy, cho dù có phải thay đổi nơi làm việc, chỗ ở hay cắt đứt quan hệ với ai.

TÍNH ƯA VA CHẠM, XUNG ĐỘT: HÃY HỌC CÁCH NÓI “VÂNG” TÍNH QUÁ NHÂN NHƯỢNG VÀ RỤT RÈ: HÃY HỌC CÁCH NÓI “KHÔNG”

Có những người rất ưa va chạm, xung đột. Đời của họ giống như cuộc chiến đấu triền miên. Thật đáng thương cho họ, vì con người đâu phải là con thú bé nhỏ trong rừng sâu sống trong cảnh bị đe dọa suốt đời. Những người ưa va chạm, xung đột thường hung hăng, dễ cáu gắt và thường phản đối bất cứ ai về bất cứ điều gì. Họ giống như con mèo bị dồn vào góc tường, nó nhe răng, trợn mắt với mọi người. Với những việc bình thường nhất họ cũng phản ứng một cách bất bình thường, vì họ thấy tất cả đều đe dọa bản thân họ và quyền lợi của họ. Lời nói thông thường nhất đối với họ là “Không”. Tôi nghĩ rằng họ sống rất khổ và có lẽ họ không hiểu được sự khác nhau giữa họ và những người bình thường, vì vậy họ rất khó thay đổi mình và làm cho cuộc sống của họ trở nên tốt hơn. Thông thường những người hay va chạm, xung đột và gây scandal khác với người bình thường không phải chỉ ở tính cách, mà còn khác biệt ở trình độ văn hoá: họ thường thiếu học vấn, trình độ nghề nghiệp chẳng ra gì, không hiểu rõ tình thế. Họ khó tiếp xúc, thiếu cảm tình với người khác, kém hiểu biết về người khác, hầu như không có bạn bè, trái lại, tạo cho mình rất nhiều thù địch. Những người xung quanh tìm cách xa lánh họ. Họ hay mặc cảm về sự thua kém của mình, họ bị ám ảnh bởi nỗi bất mãn thường xuyên về đìều gì đó và sống trong tình trạng stress liên miên. Trong lòng họ dường như ẩn sâu một nỗi sợ sệt, một mối đe doạ thầm kín mà họ không biết cách nào để thoát khỏi được. Trái với những người hay va chạm, xung đột là những người dễ tính. Họ thân thiện, dễ tiếp xúc, hay nhân nhượng và luôn luôn đáp ứng những đề nghị, lời mời hay yêu cầu của người khác, thậm chí của cả những người ít quen biết hay không quen biết gì cả. Họ có nhiều bạn và ít kẻ thù. Nhưng những người xung quanh thường hay lợi dụng tính dễ nhân nhượng và cởi mở của họ. Những người như vậy thường hay đồng ý về tất cả mọi điều để khỏi tranh cãi hay va chạm, xung đột với ai. Họ thường nói chữ: “Vâng”. Cả týp người này hay týp người khác đều dễ bị người ta khéo léo giật dây, sai khiến. Đó là những người thân, bạn bè hay kẻ thù của họ, những nhà tâm lý giỏi, như thầy bói, nhà ngoại cảm, phù thuỷ, những kẻ lừa đảo đủ loại và cả các thủ trưởng lãnh đạo theo kiểu: “chia để trị”. Về mánh khóe giật dây sẽ nói sau, còn ở đây tôi đang nói về việc khác. Khi nói đến mánh khóe giật dây thì có nghĩa là có một người nào đó bị rủ rê, thuyết phục hay doạ dẫm, bị sai khiến làm những việc có hại cho bản thân, có lợi cho kẻ khác. Kẻ lợi dụng không hề mảy may nghĩ đến hậu quả xấu đối với người kia. Lẽ ra chính người bị lợi dụng phải lường trước hậu quả đó với anh ta, nhưng tiếc thay, điều đó thường không có. Làm thế nào để tránh bị người khác giật dây? Tất nhiên, tốt hơn hết là nên sống hết một cuộc đời, khôn dần lên, già dần đi, thu được nhiều kinh nghiệm sống... Chắc là điều này sẽ đến với các bạn, nhưng khi còn trẻ tuổi thế thì các bạn phải chịu thiệt à? Tôi khuyên các bạn nên khôn lên trước khi đợi đến tuổi già. Trước hết, phải xác định bạn thuộc týp người nào: ưa va chạm, xung đột hay là dễ nhân nhượng. Cả týp người này lẫn týp người kia đều không phải là “món quà của số phận”! Khi một phẩm chất nào đó quá thừa thì đều không tốt, vì cả người ưa va chạm, xung đột lẫn người hay nhân nhượng cũng đều dễ bị kẻ khác giật dây, chỉ có điều là bằng những mánh khoé khác nhau tuỳ theo týp người. Tự đánh giá bản thân là việc khó. Nhưng ít ra bạn cũng phải quan sát mình, hãy tìm cách thăm dò ý kiến về bạn của những người biết rõ bạn. Hãy nghĩ xem bạn có hay tranh cãi và thậm chí có thể còn hay đánh nhau không? Bạn có thường từ chối yêu cầu, đề nghị của bạn bè hay người thân không? Bạn có thường đồng ý hay không? Bạn có nhiều bạn bè không? Bạn bè cùng lớp hay các bạn khác có hay tránh né bạn không? Những ai thường chơi với bạn là người như thế nào: hay sinh sự, giận dữ, lấn áp hay trái lại, họ là những người hiền lành, bình tĩnh và yên lặng? Tất nhiên, có sự khác biệt lớn giữa các nhóm con gái và con trai. Và cũng dễ hiểu là ngay trong nhóm cùng giới vẫn có những người rất khác nhau. Ngày nay, hiện tượng một cô bé gái cộc cằn, hung dữ, độc ác, thích lấn áp và cậu bé trai hiền lành, khiêm tốn và rụt rè cũng không phải là chuyện hiếm. Hãy thử xem trong lời nói của bạn chữ “vâng” hay “không”, chữ nào nhiều hơn. Bài phân tích nhỏ này sẽ nói cho bạn biết nhiều điều về bản thân. Nếu bạn cảm thấy mình có quá nhiều khó khăn trong việc giao tiếp với những người xung quanh và muốn thay đổi tình hình đó, muốn tạo lập quan hệ tốt hơn với người thân và bạn bè thì tôi có thể khuyên bạn một điều khá đơn giản. Lời khuyên đó tất nhiên không thể giải quyết được tất cả những vấn đề của bạn, nhưng dù sao chăng nữa cũng giúp nhiều cho bạn. Nếu bạn thuộc về týp người thứ nhất thì hãy học cách nói “vâng” thường hơn. Hãy theo dõi bản thân mình, hãy so sánh lời nói của mình trước đây và hiện nay. Nếu so với trước đây, hiện nay bạn nói chữ “vâng” nhiều hơn, thì hãy phân tích xem thái độ của những người xung quanh đối với bạn đã thay đổi như thế nào, họ có trở nên dịu dàng hơn, tốt bụng hơn, hiểu bạn hơn và thường hay giúp đỡ bạn hơn so với trước hay không? Nếu bạn là người hay nói “vâng” thì chắc là ngoài tính mềm mỏng và không ưa va chạm, xung đột, bạn còn bị thêm cái tính nhút nhát và rụt rè. Cần phải nói rằng rụt rè không phải là tính cách xấu và thường nó sẽ biến mất đi khi bạn lớn lên. Thường mọi người đều có cảm tình hơn với một chàng trai hay cô gái rụt rè hơn là một chàng trai tự kiêu, suồng sã hay một cô gái ngổ ngáo và xấc xược. Nhưng tiếc thay, cái tính rụt rè thái quá vốn có ở rất nhiều thiếu niên, thiếu nữ (dường như đây là một tiêu chuẩn của lứa tuổi) gây quá nhiều khó khăn cho chúng. Nếu bạn quá khốn khổ vì tính rụt rè hay nhút nhát thì chữ “không” sẽ giúp bạn phần nào khắc phục bản thân. Hãy học nói chữ này, nhất là khi bạn hiểu rằng người ta muốn lừa dối bạn, muốn sử dụng bạn vào những mục đích vụ lợi của họ hay lợi dụng tính cam chịu và nhẫn nhục của bạn để làm hại bạn. Hãy học nói chữ này một cách bình tĩnh, vững tin và tất nhiên là không phải thanh minh gì cả. Dứt khoát nói “không” - thế là xong! Không thanh minh gì hết. Bạn đã quyết định như thế và không phải nghĩ lại. Dù sao cũng không được thanh minh, không chứng minh quyết định của mình là hợp lý, bởi vì trong cuộc tranh luận, nhiều khi người thắng không phải là người đúng mà là kẻ lắm mồm. Có thể dùng cả phương án sau nữa: Nếu không nói được chữ “không” ngay thì hãy nói: “để tôi suy nghĩ thêm”, “tôi sẽ hỏi ý kiến...”, “tôi không thể quyết định ngay được vì tôi hiện chưa có đầy đủ thông tin”, “tôi sẽ trả lời sau”, v.v... Nhưng tất nhiên, đây không phải là cách từ chối tối ưu. Vì như thế bạn sẽ phải có cuộc nói chuyện khó chịu không phải một mà là hai lần. Và có lẽ bạn cũng biết câu: “Kẻ nhút nhát chết cả nghìn lần, chứ người dũng cảm thì chỉ chết một lần thôi”. Cuối cùng, bạn nên nhớ rằng không thể nói “vâng” hay “không” một cách máy móc. Trước hết phải suy nghĩ xem người ta đề nghị bạn cái gì, mời bạn đi đâu, yêu cầu làm gì. Có phải người đó nói thành thực hay không, anh ta có thật sự cần bạn giúp đỡ hay không, có nên đi đến nơi mà người ta mời hay không? Hậu quả nào có thể xảy ra với bạn, với người đối thoại, với người thân và những người quanh bạn? Ai có lợi và lợi ở chỗ nào? Ai bất lợi và bất lợi ở chỗ nào, và đối với ai việc đó thậm chí còn nguy hiểm nữa? Nếu bạn biết suy nghĩ chín chắn và phân tích tỉ mỉ thì điều đó có nghĩa bạn đang lớn lên, khôn ra và đang chuyển từ tuổi thơ ấu lên cấp độ mới cao hơn về sự hiểu biết cuộc đời. Khi đó chắc chắn là bạn sẽ phân biệt được lòng chân thành với ý muốn lợi dụng bạn và do đó biết cách trả lời đúng: hoặc là dứt khoát nói “vâng”, hoặc nói “không” cũng không kém phần dứt khoát, chín chắn như người lớn. Ngoài những chữ “vâng” và “không”, một số người không hiểu vì lý do nào đó (cũng có thể một phần là do thiếu giáo dục, thiếu văn hoá chăng?) khó nói ra những chữ đơn giản mà thật sự thần diệu như “cám ơn”, “không dám”, “không có gì”, “xin mời” “xin lỗi”... Nếu trong những trường hợp cần thiết bạn học được cách nói bình thản, tự tin, đàng hoàng, chân thành những chữ này thì bạn sẽ nhận thấy những chữ đó thật sự là thần diệu. Và đồng thời sẽ nhận thấy là mọi người bắt đầu đối xử với bạn tốt hơn trước, kính trọng, tin tưởng và quý mến bạn hơn. Bạn hãy làm thử xem - bạn có mất gì đâu! Có phải không? Nếu bạn thấy không thể nào nói ra được những chữ trên, do bạn quá rụt rè và quá e ngại hay là chưa được ai dạy cách nói những chữ đó thì có thể thử dùng phương pháp sau: Bạn hãy hình dung mình là một người diễn viên đang tập. Bạn phải học thuộc những lời của vai diễn. Không phải là bạn nói mà là người diễn viên nói, đây không phải là những lời của bạn mà là của vai diễn. Hãy nói ra những chữ trên, bình tĩnh, không gượng gạo, đàng hoàng, chân thành đúng như vai diễn. Thế là xong! Điều này thật dễ!

Nói với các bậc cha mẹ, ông bà

Con cháu quý vị đang bước vào cuộc đời của người lớn. Các vị hãy suy nghĩ thật kỹ về món hành trang mà các vị chuẩn bị cho chúng. Tất nhiên, các vị đều mong cho con cháu mình được hạnh phúc. Nhưng chúng sẽ có ít cơ hội đạt được hạnh phúc, nếu chính các vị không phải là những người có hạnh phúc. Các vị muốn con cháu mình đạt được trong cuộc sống cái mà bản thân các vị chưa đạt được, muốn chúng thực hiện những điều mà bản thân các vị trước đây, có một lúc nào đó đã từng mơ ước. Nhưng nếu các vị còn chưa học được cách đấu tranh cho hạnh phúc của mình, nếu các vị đã bỏ lỡ mất nó thì làm sao các vị có thể dạy con cháu mình làm điều ấy được? Gia đình của chúng sẽ như thế nào, nếu ngay từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, chúng chỉ thấy trong gia đình bố mẹ toàn những cuộc cãi vã, lục đục, thù ghét, khóc lóc, những lời oán trách, kêu ca, những lời buộc tội bất kỳ ai đã gây nên nỗi bất hạnh: nào là tất cả mọi người xung quanh, nào là chồng hay vợ, nào là hàng xóm, láng giềng, nào là bạn bè, đồng nghiệp, chứ không hề tự trách mình. Nếu đứa trẻ không may mắn có cha mẹ như thế thì thật đáng buồn: chính các vị bằng đôi tay của mình đang làm cho hạnh phúc tương lai của nó quá mờ ảo, quá viển vông. Hơn nữa, sức khỏe của con cháu các vị sẽ rất kém. Chính các vị đã làm tất cả để gây nên sự thể này... Tôi xin dẫn ra một đoạn trích ngắn từ bài báo của Dmitry Kubrakov, với nhan đề: “Làm thế nào để sớm bị nhồi máu cơ tim?”. Tác giả nói đến năm nguyên nhân gây ra nhồi máu cơ tim, trong đó có việc ăn uống không đúng, không biết nghỉ ngơi và thư giãn, v.v... Nhưng, đứng hàng đầu là “lời khuyên” sau: “Lời khuyên thứ nhất. Hãy cố gắng lúc nào cũng giữ tâm thần trong tình trạng bực bội cao độ với chính mình và những người xung quanh. Để không bị ai chơi xỏ mình thì đừng tin ai hết và phải luôn luôn cực kỳ cảnh giác. Nếu bạn không thành đạt cái gì đó, thì nên bắt đầu lo lắng, buồn phiền rất ghê về chuyện mình bị thất bại, cũng như về việc người khác nghĩ gì về thất bại của bạn. Vì trong số họ còn có biết bao nhiêu thù địch giấu mặt và công khai. Một khi bạn gặp phải những chuyện khó chịu và bất ngờ thì hãy nổi cơn giận đùng đùng lên. Còn nếu chưa đủ thì hãy dồn nén cơn tức giận và nỗi thất vọng vào sâu trong mình và biểu lộ tình cảm của mình bằng những lời cáu kỉnh và độc địa. Vẻ mặt rầu rĩ, những cử chỉ căng thẳng, hàm răng nghiến chặt với điếu thuốc trên môi là những dấu hiệu hiển nhiên cho thấy bạn đang trên đường đi đến nhồi máu cơ tim đấy”.

Các vị hãy nhớ một điều: đối với con cháu các vị và bản thân các vị thì điều quan trọng không phải là lời nhận xét của thím Trâm hay những người láng giềng, mà quan trọng nhất chính là những điều cần thiết cho bản thân các vị! Các vị hãy nhớ lại câu chuyện cổ tích về nàng công chúa muốn lấy chàng chăn lợn làm chồng. Nhà vua và hoàng hậu hoảng hốt lên, nghĩ đến những lời châm chọc của thần dân khi biết chuyện này, nhưng nàng công chúa một mực cứ làm theo ý mình. Và nàng đã hành động hoàn toàn có lý! Nhà vua và hoàng hậu vẫn không yên lòng bèn cử viên thám tử vào thành để dò xét xem mọi người nói gì về chuyện này. Thám tử quay trở về tâu vua: “Cả thành phô chỉ thấy bàn về cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối”. Ngày thứ hai thám tử báo cáo cũng y như vậy. Ngày thứ ba cũng thế... Nhưng đến ngày thứ tư thì mọi người chỉ nói đến những việc của họ mà thôi. Chẳng còn ai để ý đến chuyện hôn nhân đó nữa. Cho nên các vị đừng nghĩ rằng cái quan trọng nhất đối với các vị là lời đàm tiếu của những người xung quanh. Chẳng lẽ chúng lại quan trọng hơn những việc riêng hay lợi ích riêng các vị hay sao? Những kẻ đơm đặt hay xấu bụng chỉ qua một vài ngày, như trong chuyện cổ tích trên, sẽ tìm được những đề tài mới để ngồi lê đôi mách, còn các vị thì sẽ phải gánh chịu mọi hậu quả của một bước sai, rồi sau này các vị sẽ hối tiếc, có khi suốt cả đời.

NGƯỜI TA GIẬT DÂY BẠN NHƯ THẾ NÀO (ĐỪNG LÀM CON RỐI TRONG TAY KẺ KHÁC!)

Chắc bạn còn nhớ là bạn cùng tôi đã lập biểu đồ tâm lý của bạn và bạn bè như thế nào. Để có thể giật dây, sai khiến được người khác, cần phải biết rõ những nét đặc biệt trong tính cách của người đó, và thường người ta hay lợi dụng những tính cách rõ nét nhất như tính ích kỷ cực kỳ, lòng ghen tị điên cuồng, sự liều lĩnh mù quáng, tính nhút nhát quá đáng, lòng kiêu căng cực độ, tính tự cao đến mức bệnh hoạn, tính rụt rè thái quá, lòng tham lam vô độ, v.v... Dễ hiểu là khi con người bị làm thứ đồ chơi trong tay kẻ khác thì anh ta sẽ khó lòng có được hạnh phúc. Cho nên nếu bạn không muốn rơi vào tình trạng này và bạn đã biết cái biểu đồ tâm lý của mình rồi thì hãy thử phân tích xem: bằng cách nào, kẻ khác có thể giật dây bạn dễ nhất. Và hãy nhớ lại, cho đến lúc này, có ai đã làm được việc này và ở mức độ nào đối với bạn chưa. Nhưng bạn đừng có lầm lẫn lòng quan tâm chân thành của cha mẹ, ông bà về hạnh phúc tương lai của bạn (khi họ đòi hỏi ở bạn điều gì đó mà bạn cứ khăng khăng phản đối) với mưu đồ của những kẻ vô lương tâm.

  • * *

Hãy thử xem xét, chẳng hạn, một người tham lam. Làm thế nào để giật dây được anh ta? Tất nhiên không phải dựa vào lòng dũng cảm hay nhút nhát của anh ta, không phải dựa vào tính tự ái hay một cái gì khác nữa, mà chính là dựa vào lòng tham của anh ta. Có thể lôi kéo anh ta vào các trò bịp của ngân hàng tư nhân kiểu “kim tự tháp tài chính” hay một vụ áp-phe nào khác (về nhà cửa hay xổ số) “câu” anh ta bằng tiền lãi cao hay những giải thưởng đắt tiền, v.v...Cuối cùng anh ta có nguy cơ bị trắng tay hay mất sạch tất cả những gì anh ta đã có – nhà cửa, xe cộ, tiền bạc. Cho nên nếu bạn là người tham lam ít nhiều thì hãy coi chừng hậu quả gì sẽ đến, khi bạn mất cảnh giác! Hãy nhớ là đạo Phật coi lòng tham đứng hàng đầu trong ba thứ độc nguy hại nhất (tham, sân, si) gây phiền não, đau khổ cho con người. Hay là một con người quá gan dạ, liều lĩnh và khinh suất. Nếu thêm vào đó, anh ta lại có tính tự kiêu và hay khoe khoang thì đây quả là một miếng mồi ngon cho kẻ khiêu khích hay kẻ muốn giật dây người khác. Bọn đó không phải mất công thuyết phục lâu la gì hay dụ dỗ bạn thực hiện các hành động điên rồ hay tham gia vào các cuộc tranh chấp hoàn toàn chẳng cần thiết cho bạn, hay làm những điều ngu xuẩn, bạt mạng có thể làm hỏng toàn bộ cuộc đời của bạn. Chúng chỉ việc nói khích bạn vài câu trước mặt người khác: “Cậu kém thế, nếu không dám làm...” thì bạn sẵn sàng làm tất cả để khoe khoang với những người xung quanh và khoan khoái trước sự khâm phục của họ. Bạn sẵng sàng làm tất cả những gì không phải có lợi cho mình mà là cho kẻ khác, thường thường là bọn đểu giả: chẳng hạn, bạn chạy qua đường cao tốc, lướt qua trước mũi những chiếc ô tô đang phóng nhanh, chích ma tuý cho mình, trèo từ ban công này sang ban công khác trên độ cao của tầng mười hai, v.v... và v.v... Làm như thế, bạn không hề nghĩ là mình có thể chết hay trở nên tàn tật suốt đời. Còn khi bạn bị tai nạn, ở vào cái giây phút khó khăn nhất của cuộc đời, thì những kẻ đã khích bạn, đã từng vỗ tay nhiệt liệt cổ vũ bạn thì nay lại dường như bị một ngọn gió thổi biến đâu mất hết và không có một ai đến giúp đỡ bạn cả. Có bao giờ bạn nghĩ là một chàng trai nhanh nhẹn, xinh đẹp, tuấn tú làm các cô gái ngây thơ mê tít thò lò lại có thể mất hết tay chân, trở thành kẻ tàn tật vô dụng và yếu ớt sống nốt phần đời còn lại trong nhà nuôi người tàn phế, bạn có nghĩ thế hay không? Týp người quá gan dạ, liều lĩnh, bạt mạng và khinh suất thường không nghĩ đến bất cứ điều gì khác ngoài sự khâm phục của bạn bè làm anh ta thoả mãn ngây ngất. Ngây ngất bởi cái “vinh quang” hiện đang còn duy trì hào quang của anh ta, như một vị anh hùng hay một người dũng cảm, mà thật ra đây không phải là cái vinh quang của con người quả cảm, mà chỉ là “vinh quang” của một thằng ngốc! Nếu bạn bè khích họ thử dùng ma túy để thách thức “lòng dũng cảm” của họ thì những “vị anh hùng” kiểu này chắc chắn sẽ cắn câu ngay. Đã từ lâu tất cả mọi người đều biết là bọn mafia buôn bán ma tuý kiếm chác được những món tiền khổng lồ trên khổ đau của người khác, và chúng không thể tồn tại được, nếu không lôi kéo thêm những bợm nghiện mới. Có những loại ma túy gây nghiện ngay từ lần thử đầu tiên. Cái gì trong trường hợp này được đặt lên bàn cân? “Lòng khâm phục” trong giây lát của chúng bạn (thường là những kẻ làm việc cho bọn mafia ma tuý) một bên, còn bên kia là sự phụ thuộc, nô lệ suốt đời vào ma tuý, sự nhiễm bệnh SIDA dễ dàng, sự thất vọng của gia đình, sự đánh mất tương lai, phá huỷ sức khỏe và cuối cùng là cái chết đến sớm, cái chết kinh khủng, bi thảm và nhiều khi là ở một xó xỉnh bẩn thỉu nào đấy. Nếu bạn có một người bạn mất trí khôn như vậy thì hãy cố gắng khuyên hắn nên thận trọng và khôn hơn một chút. Còn nếu chính bạn như vậy thì tôi xin chia buồn với bạn, với những người thân của bạn, và tôi hết sức hy vọng rằng bạn sẽ mau chóng khôn lên, khi vẫn còn chưa muộn. Một con người hung dữ, độc ác, nhẫn tâm, nóng nảy và dễ bị kích động cũng rất giống những người được kể ở trên. Cả hai týp người này làm tôi nhớ đến con rối với bộ dây điều khiển hay là con bò lao vào mảnh vải đỏ trong tay kẻ đấu bò. Một kẻ giảo quyệt nào đó hoàn toàn chẳng cần cố gắng nhiều mà chỉ nói khích vài lời là những con rối đó bắt đầu hành động, không hề nghĩ gì đến hậu quả cả đối với bản thân, cũng như đối với người khác. “Cậu có biết hắn nói về cậu gì không?!”; “Bọn chúng khinh thường mày, chẳng lẽ mày lại có thể chịu đựng được ư?, Chẳng lẽ mày lại là thằng nhát gan đến thế à?”, v.v... và v.v... Và thế là xong – cậu ta sẵn sàng hùng hùng hổ hổ chạy đi “giải quyết”: sinh sự, đánh nhau. Cậu ta có thể gây thương tích hay giết người, vào tù, còn bản thân cũng rất có thể bị đánh cho thập tử nhất sinh. Và chẳng qua cũng tại vì cậu ta phản ứng điên cuồng với những lời nói khích của ai đó, như một con chó bị xích sủa với bất kỳ ai đi ngang qua và vung tay trước mũi nó. Nếu bạn mắc phải cái tính đó và cũng đã từng hành động như vậy rồi thì lần sau nên suy nghĩ cho chín chắn trước khi lao vào đánh đấm hay xỉ vả một người nào đó. Hãy tự hỏi mình: điều này có lợi cho ai và có thể gây hậu quả như thế nào cho mình và cho người thân? Liệu bạn có suy nghĩ gì không, nếu sau một vụ ẩu đả nào đó, mẹ bạn phải đẩy xe lăn cho bạn đi và đút cho bạn ăn từng thìa một cho đến cuối đời? Lúc đó, bạn có thể xây dựng những kế hoạch cho cuộc sống tương lai và mơ ước về hạnh phúc được không? Một cuộc đánh nhau, một vụ cãi vã, trả thù hay xích mích có đáng giá như vậy không? Có đáng phải trả bằng cái giá của cả cuộc đời bạn và nỗi đau khổ triền miên của người thân không? Bạn hãy suy nghĩ về câu tục ngữ sau: “Trong hai người cãi nhau, người có lỗi là người thông minh hơn”. Bây giờ xin nói về người nhút nhát. Người này cũng dễ dàng bị giật dây và bị lợi dụng vào những mục đích xấu xa của kẻ khác. Anh ta có thể sợ những gì? Sợ đủ mọi thứ! Khi quảng cáo các loại dược phẩm hay dụng cụ y tế nào, người ta thường hay doạ công chúng. Mọi người đều sợ bệnh ung thư, SIDA hay nhiều bệnh nghiêm trọng khác, đó là chưa nói đến nỗi sợ trước tuổi già và cái chết. Người ta sợ không chỉ cho mình mà cả cho người thân nữa, trước hết là cho trẻ con. Nhưng bệnh thật và sự cần thiết phải điều trị bệnh là một việc, còn việc khác là uống hàng đống các loại thuốc “thần dược” với hy vọng không bị bệnh này hay bệnh nọ. Dĩ nhiên, mọi người chúng ta một khi nào đó đều sẽ mắc bệnh và cuối cùng rồi ai cũng chết cả, như trong chuyện tiếu lâm sau về một bệnh nhân: - Bác sĩ ơi, tôi có chết không? - Dĩ nhiên rồi, còn phải nói gì nữa! Không được suốt đời chỉ lo bệnh tật và cái chết. Cần phải sống, chứ không phải sợ sống. Nhưng vẫn có khá nhiều người sống với nỗi lo âu và sợ sệt quá đáng thường xuyên. Những nhà quảng cáo hay sản xuất thuốc biết rất rõ tâm lý của những người này và kiếm được khối tiền nhờ nỗi sợ của họ. Ngoài sức khỏe ra, người ta còn sợ mất những thứ khác nữa: nhà cửa, gia đình, bạn bè, tiền bạc, xe cộ, tài sản và những thứ phi vật chất, như quyền cao chức trọng, uy tín, hay tình yêu. Do nỗi sợ như thế, người ta làm nhiều điều ngu ngốc và dễ bị những kẻ quỷ quyệt, những tên lừa đảo hay bọn bịp bợm lợi dụng để kiếm chác. Chỉ cần nhắc đến đám thầy bói, thầy tướng, phù thuỷ sống phè phỡn bằng tiền bạc của những người phụ nữ nhẹ dạ, cả tin, trả tiền cho những “cái bùa” hay “tháo ngải ếm hôn nhân", v.v... Cách đây không lâu, trên một tờ báo có đăng chuyện một nhà báo nữ cả tin, do chính bà này tự kể: vì sợ mất tiền, bà đã đưa cho cô bạn gái của bà giữ hộ vài nghìn đô-la (tất nhiên là dưới sự hướng dẫn “ân cần” và theo lời khuyên “đầy sự quan tâm” của cô này). Sau đó, bà không bao giờ đòi lại được số tiền của mình nữa, mà lại còn bị cô ả liên tục xỉ vả là bà nhẫn tâm và tàn ác, vì cô ả lúc thì phải làm cái này, lúc lại bị tai ương khác, khi thì phải sửa nhà gấp (lại tân trang sang trọng nữa!), khi thì phải gắn răng giả và trả một số tiền lớn, v.v... và v.v... Chẳng hạn, vì sợ không thi vào trường đại học được mà phải đưa một khoản tiền lớn đút lót cho kẻ lừa đảo không mảy may có một tí quan hệ đến trường này. Có khi những cặp vợ chồng sợ sinh con trai hay con gái không theo ý muốn, đã đưa tiền cho phù thuỷ, và được lão hứa sẽ... trả lại “đàng hoàng” cho họ số tiền đã đưa, nếu phù phép của lão “không linh nghiệm”. Vì việc sinh con trai và con gái thường có tỷ lệ gần như nhau, nên số tiền còn lại trên tay lão cũng nuôi sống lão không đến nỗi tồi. Nói chung là có nhiều thứ để mà sợ nữa. Bạn sợ mất chức thì bạn dễ bị mắc mưu hay bị lôi cuốn vào những mưu đồ hay những việc đen tối nào đó. Tôi biết một người có đủ mọi thứ, nhà cửa, công việc... nhưng lại bị chứng mất ngủ và uống hàng đống thuốc an thần, chỉ vì ông ta rất sợ chẳng may cô con gái trẻ trung xinh đẹp của ông ta ... mất trinh. Tôi nghĩ rằng đáng lẽ ông ta phải sợ con gái ông trở thành gái già mới phải! Hãy nhớ rằng: “Kẻ nhút nhát chết đến một nghìn lần, chứ người dũng cảm thì chỉ chết một lần thôi”. Tất nhiên, tôi không nói là trong đời này chẳng có cái gì đáng sợ cả. Nỗi sợ là cái cần thiết cho sự sống còn của bất kỳ một sinh vật nào, nhưng cái sợ thất thần, cái sợ mù quáng lại có thể gây nguy hiểm cho con người. Nó thường xuyên ám ảnh và làm hỏng cuộc sống con người. Làm sao có thể nói đến hạnh phúc của một người nhút nhát (cũng như một kẻ liều lĩnh) được? Nếu như bạn có thiếu sót này thì hãy suy nghĩ và phân tích để hiểu xem có ai đang lợi dụng chỗ yếu đó để sai khiến bạn không? Cũng dễ dàng giật dây những người quá hiền lành, cả tin, dễ dãi và tốt bụng. Những người đó có khi đã trở thành nạn nhân của bọn tội phạm hay bọn bạo dâm chỉ vì chúng nhờ họ đến gần để chỉ đường hay giúp đỡ (có khi để giúp đỡ cho chó mèo). Đây là trường hợp tương đối hãn hữu. Phổ biến hơn là khi một cô bạn nghèo cho tiền người bạn gái khác giàu hơn, chỉ vì cô giàu mà tham biết gây lòng thương hại ở người bạn gái nghèo. Hay là khi một người chia sẻ hết cái gì mình có cho một kẻ tham lam mà có của cải nhiều hơn gấp bội. Tất nhiên, không nên ngốc như thế, nhưng người tốt bụng luôn luôn vẫn có hạnh phúc nhiều hơn kẻ ích kỷ, vì người ấy cho và quên đi, mà thậm chí còn vui vẻ, thanh thản vì đã giúp đỡ cho ai đó. Khác với kẻ tham lam và hay ghen tị, người ấy không bị tính ghen tị, tham lam, tiếc nuối, v.v... gặm nhấm tâm hồn. Tính tò mò quá độ cũng có thể gây cho con người những điều khó chịu ghê gớm. Vì tò mò, anh ta có thể làm điều mạo hiểm, chẳng hạn không biết bơi mà lại liều lĩnh đi thuyền trên sông miền núi, có thể thử ma túy cho biết “mùi đời”, có thể dính vào một cuộc phiêu lưu nguy hiểm nào đó. Chỉ cần khéo léo lợi dụng cái tính này của anh ta mà khích động thì có thể lôi kéo anh ta làm gì cũng được. Chúng ta cũng biết có những trường hợp các cậu bé vì tò mò mà chui vào trạm biến thế và chết cháy trong đó, hay may mắn hơn thì trở nên thương tật suốt đời. Mà chắc chắn là có thằng nào đó đã khích chúng làm chuyện này. Cũng hay xảy ra trường hợp vì tò mò, thóc mách một người biết được một điều bí mật nguy hiểm của ai đó và về sau phải trả giá bằng tính mạng của anh ta. Không phải ngẫu nhiên có câu tục ngữ Nga: “Trong phiên chợ, mụ Barbara thóc mách bị người ta vặt mất mũi”. Một kẻ hay ghen tuông thì không bao giờ có hạnh phúc được. Anh ta làm hỏng rất “tài tình” đời mình và người thân, đặc biệt là những người thân yêu nhất. Rất dễ sai khiến anh ta. Chỉ cần khơi dậy ở anh ta lòng ghen tuông, sự nghi ngờ thì anh ta sẵn sàng làm tất cả, kể cả phạm tội. Điều đó chúng ta biết rõ qua nhân vật Otello và nàng Desdemona. Tiếc rằng, ghen tuông là bẩm tính rất khó sửa. Nếu bạn có tính này thì hãy đề phòng hay ít ra cũng phải suy nghĩ trước khi hành động trong những tình huống nguy kịch. Còn nếu bạn may mắn không có tính ghen tuông thì đừng nên gắn số phận của mình với người có tính ghen tuông, vì như vậy bạn sẽ không bao giờ có hạnh phúc và thậm chí còn có thể bị nguy hiểm đến tính mạng. Cuối cùng, tôi muốn nói đến những người hay than vãn và những người có tính cách mạnh mẽ và ý chí sắt đá. Ý chí sắt đá không gì lay chuyển là phẩm chất rất quý và rất cần cho hạnh phúc, nó chứng tỏ con người có hy vọng, có ước mơ và có tinh thần vươn tới hạnh phúc. Có khi một người bề ngoài mềm mỏng, tốt bụng, có vẻ trí thức, nhưng tính cách rất mạnh, ý chí sắt đá. Tôi mong bạn hãy nhớ câu tục ngữ rất hay này: “Mất tiền là không mất gì cả, mất danh dự là mất rất nhiều, còn mất hy vọng là mất tất cả”. Đạo Ki-tô cũng cho cái thói hay than vãn là trọng tội. Rất thường thấy những người chỉ gặp khó khăn nhỏ, thậm chí những khó khăn do họ tưởng tượng ra, liền mất tinh thần ngay, buông xuôi tay, không còn chút ý chí đấu tranh cho mình. Ở những người đó, có thể mọi việc đều tốt đẹp, nhưng họ vẫn than vãn, rên rĩ, thất vọng. Họ không có ý chí, không có sức sống và tinh thần đấu tranh. Những người xung quanh họ chỉ mất công vô ích động viên, cổ vũ họ, giúp đỡ họ - nhưng họ không thể và thực tế cũng không muốn sống có hạnh phúc. Họ là týp người như vậy, thế thôi! Bạn hãy nhìn xem quanh mình – chắc hẳn bạn đã gặp phải những người như vậy và có lẽ thậm chí bạn còn cố thử giúp đỡ hay an ủi họ, nhưng không chắc gì có thể thay đổi được họ. Chỉ có chính họ mới có thể thay đổi cuộc sống của họ sang một hướng mới. Điều đó cũng như việc xây dựng hạnh phúc cho mình, chỉ có chính bản thân mỗi người phải tự mình làm lấy, chứ không ai có thể làm thay được. Những người như vậy thường bị coi là những “con quỷ hút màu” (vampire - từ ngữ khoa thần bí, có nghĩa là những kẻ hút năng lượng của người khác – ND) bởi vì họ luôn luôn trút cho người khác gánh nặng lo âu và đau khổ của mình (nhiều khi do họ tưởng tượng ra), trong khi đó thì lại chối từ những sự giúp đỡ hữu ích của bạn bè, còn bản thân thì không chịu động chân động tay làm gì cả. Thôi được, đó là việc của họ! Nếu bạn là người như vậy thì tôi chỉ thông cảm với bạn và thành thực mong bạn sớm thay đổi được càng nhiều càng tốt. Còn nếu bạn muốn kết bạn hay lập gia đình với một người như thế thì hãy suy nghĩ kỹ: có nên làm việc này hay không, bạn sẽ có hạnh phúc với người đó hay không? Cũng có khi những người hay than vãn, tuy không cố tình, nhưng lại sai khiến được những người xung quanh. Trên đời bao giờ cũng có những người thương xót, giúp đỡ họ và nhiều khi còn hy sinh phần nào đó bản thân mình. Có khi những người xung quanh hiến tặng những thứ mà chính họ có ít - tiền bạc, đồ đạc, sự giúp đỡ và ... thời gian cho những kẻ hay than vãn. Chính tôi cũng có mấy người bạn gái cũ thời trẻ thỉnh thoảng họ gọi điện để trút bầu tâm sự. Họ luôn luôn than phiền về sức khoẻ, kể chuyện đau cái gì, nhức nhối ở đâu, người ta tiêm thuốc gì, kết quả phân tích máu ra sao, bác sĩ nói gì, giá thuốc bao nhiêu, mắt phải nhìn thế nào, mắt trái nhìn ra sao, đầu gối không co được và lưng đau thế nào, v.v... và v.v... Lúc tôi tưởng cuộc nói chuyện đã đến hồi kết thúc thì họ lại chuyển sang đề tài khác - việc ông chồng không biết đồng cảm như thế nào, ông ấy nói gì, la hét ra sao, làm gì và không làm gì, không hiểu điều gì (mà họ đã chung sống với nhau ba bốn chục năm rồi đấy!), việc bà ấy buồn rầu và đau khổ thế nào, v.v... và v.v... Sau đó là độc thoại về thực phẩm, giá cả, về việc bà ấy thái nhỏ bắp cải và nấu xúp thế nào, bà ấy xách bao nhiêu khoai tây mua ở chợ về nhà, người bán hàng nói gì, hôm qua cái đĩa bị vỡ thế nào, một cái vung biến đi đâu mất không tìm ra... Và thế là tôi bị mất hàng tiếng đồng hồ để kiên nhẫn nghe và sốt ruột trả lời nhát gừng “ừ hử”, mặc dù biết rằng, tán gẫu lung tung là một tội nặng. Trong khi đó tôi biết rất rõ rằng công việc của tôi vì thế bị đình trệ, tôi phải ngủ muộn hơn hai tiếng đồng hồ, sáng dậy ngủ chưa đẫy giấc và mệt mỏi, và trong lúc nói chuyện, người khác không thể gọi điện cho tôi được, lỡ đâu lại có việc gì rất quan trọng, nhưng... Tôi cũng biết các bà bạn của tôi chẳng có ai để nói chuyện, chẳng có ai để trút bầu tâm sự, vì cả chồng cả con bà ấy chẳng ai quan tâm đến tâm tình của bà. Cho nên trong mức độ nào đó tôi cũng phải cố chịu “đóng vai” người bác sĩ tâm lý. Bà bạn nói ra được thì bà thanh thản hơn. Còn tôi có thể tặng cho bà bạn một hai tiếng đồng hồ của đời mình, mà cuộc đời chẳng còn lâu dài nữa. Nếu tôi làm việc này có ý thức, coi như một việc thiện nguyện, như thế là không có ai giật dây, sai khiến tôi. Chỉ đơn giản là tôi hiến tặng, thế thôi. Nhưng tôi không thể giúp người bạn của mình được gì hơn nữa, vì bà ấy tự xây dựng cuộc sống của mình, tự chọn lấy chồng, nuôi dạy con cái. Nếu bà ấy đã tạo lập “cái hạnh phúc” kiểu như vậy chứ không phải là kiểu khác, thì bây giờ chẳng thể làm được gì nữa, chỉ còn biết nghe bà ta than vãn và đồng cảm mà thôi. Trái lại, có những người tuy gặp hoàn cảnh éo le nhất của cuộc đời vẫn không mất đi sự minh mẫn đầu óc và sự bình tĩnh trong tâm hồn, lòng tự tin vào sức lực của mình, ý chí đấu tranh đến cùng với những khó khăn. Đây không phải là những nhân vật trong phim, họ sống giữa chúng ta và trên ngực họ không đeo phù hiệu “anh hùng” gì cả. Đây có thể là một bà cụ già chống gậy, một người trẻ tuổi sống cuộc đời khổ hạnh mà kiên trì học hỏi và đạt được những đỉnh cao trong lĩnh vực nghề nghiệp, đây có thể là một người phụ nữ mảnh khảnh - mẹ của một đứa trẻ tật nguyền, mà vẫn kiên trì cứu chữa con, v.v... Họ có một cuộc sống khổ cực nhưng có thể nói là anh hùng tuy bề ngoài bình thường, đồng thời là những người tốt bụng, cởi mở với người khác và sẵn sàng tuỳ sức giúp đỡ những người xung quanh. Thật đáng ngạc nhiên, vì nhiều khi họ lại là những người có hạnh phúc. Họ có hạnh phúc vì nhận thức được mình đang hoàn thành sứ mệnh và cảm thấy hài lòng với cuộc sống súc tích và tích cực tối đa. Đối với họ, cuộc sống là cuộc tấn công thường xuyên, là trận chiến đấu không dứt, là sự cống hiến đến cùng sức lực của họ.

  • * *

Bây giờ bạn đã hiểu cách giật dây, sai khiến người khác khi biết được cá tính của anh ta như thế nào chưa? Hãy nghĩ xem có khi nào bạn đã bị giật dây như thế chưa? Hãy phân tích để hiểu xem kẻ khác đã lợi dụng những nét tính cách nào của bạn, những điểm yếu của bạn ở đâu? Đừng để mình rơi vào cạm bẫy đó nữa. Bạn hãy cố gắng trưởng thành hơn lên, khôn hơn và thận trọng hơn. Nếu bạn cảm thấy có ai đó định gây sức ép đối với bạn, định lừa dối, khiêu khích hay gạ gẫm bạn làm điều gì không tốt hay có hại cho bạn thì không nhất thiết phải cãi cọ với kẻ đó làm gì. Chỉ cần nói rõ là bạn đang có những kế hoạch khác, điều anh ta đề nghị không hợp với bạn, cuối cùng hãy cương quyết nói: anh nên đi tìm những thằng ngu ở chỗ khác hay nếu anh muốn lắm thì cứ tự làm lấy điều đó.

Chương 7 HÃY LÀ NGƯỜI THỰC TẾ: ĐỪNG ĐÒI HỎI NHỮNG ĐIỀU QUÁ SỨC Ở NGƯỜI KHÁC.

Không có thì đành chịu, chứ biết làm sao!. - Thành ngữ Nga.

Nhiều khi người ta cảm thấy mình bất hạnh vì chồng, vợ, bạn bè, đồng sự không hiểu họ. Thế nào là “không hiểu”? Có nghĩa là người ta không làm cái điều bạn muốn, không cảm thấy được cái điều bạn cảm thấy. Chẳng hạn, buổi tối, vợ chồng đi làm về, cả hai đều mệt phờ. Vợ bắt đầu nấu nướng ở bếp, dọn dẹp nhà cửa, còn chồng thì... ngồi xem tivi hay đọc báo, ra sân chơi đô-mi-nô... Bắt đầu một cuộc cãi cọ, tất nhiên là do vợ gây ra chứ không phải chồng. Anh ta hoàn toàn muốn hoà bình – vì anh ta muốn nghỉ ngơi yên ổn sau một ngày làm việc căng thẳng. Tại sao chị vợ lại nổi đình đám lên? Bởi vì chồng “không hiểu” chị, chính chị cũng mệt mỏi sau tám tiếng lao động, anh không giúp chị mà chỉ nghĩ đến mình. Thế thì xin hỏi: tại sao người chồng hay bất kỳ một người nào trước hết phải nghĩ đến ai khác, chứ không phải đến mình? Anh ta cũng có quyền nói rằng người vợ “không hiểu” anh, và anh cũng hoàn toàn đúng. Nói đúng hơn là cả hai người đều không hiểu nhau. Chị vợ không hiểu tại sao anh chồng lại không giúp đỡ mình, anh ta là người ích kỷ, còn anh chồng thì không hiểu tại sao người vợ ích kỷ này lại không cho anh nghỉ ngơi cho đáng công một ngày làm việc mệt nhọc của mình. Có lẽ chân lý nằm đâu đó ở giữa. Đây chính là nghệ thuật cuộc sống gia đình: phải dần dần tìm cách nhân nhượng nhau, tìm nếp sống chung mà không xúc phạm nhau hay đòi hỏi đến mức tối đa. Khi đó, cuộc sống chung dù sao vẫn tốt hơn là ly dị để tìm người chồng (hay vợ) mới, hay là sống độc thân. Có một câu tục ngữ Việt Nam rất hay nói về sức mạnh của nếp sống chung nhân nhượng, hoà thuận nhau trong gia đình:“Thuận vợ, thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”. Dù trong việc lớn hay việc nhỏ, mỗi người đều phải dựa vào chính bản thân mình trước đã. Nếu có ai đó (bố, mẹ, chồng, vợ, bạn, láng giềng, người đi qua đường) giúp đỡ bạn thì nên coi đây là món quà của số phận. Đừng có đòi hỏi hay mong đợi sự giúp đỡ hay thông hiểu của người khác, đừng có tức giận khi không có được những điều đó. Không một ai, thậm chí cả người thân nhất của bạn bắt buộc phải cho bạn một cái gì! Việc này hoàn toàn tự nguyện, muốn thì giúp, họ không muốn hay không thể giúp, thì mình phải tự làm lấy. Sự đồng cảm hay giúp đỡ lẫn nhau có thể có mà cũng có thể không, và để có được những điều này thì phải cố gắng làm việc kiên trì và lâu dài, nhất là trong cuộc sống gia đình và trong quan hệ tương hỗ giữa hai thế hệ “cha và con”. Và ở đây, việc rất có ích là bạn cần phải biết điều khiển những tình cảm của mình, biết thay đổi giọng nói và điệu nói, biết cách xử sự khéo léo khi có xung đột, biết phân tích tình hình và ước lượng hậu quả những hành động của bạn, hiểu được tâm lý người khác. Nếu bạn áp dụng vào thực tế những kiến thức này trong thời gian lâu dài (hàng năm, đúng hơn là cả đời mình) thì như nữ ca sĩ Nga Alla Pugachova hát trong bài ca: “Bằng cái giá rất đắt, chúng ta có thể đạt tới hạnh phúc” và “Nếu khổ nhọc lâu dài ắt phải đạt được cái gì đó”.

Bạn là bạn, anh ta là anh ta, cô ấy là cô ấy, họ là họ. Trên toàn thế giới không thể có hai người hoàn toàn giống nhau. Thế thì tại sao bạn lại muốn có một ai đấy suy nghĩ giống y như bạn? Mỗi người sống và cảm nhận theo cách riêng mình, thêm vào đó trên đời này quả thật có rất nhiều kẻ ích kỷ. Một điều dễ hiểu là người bạn của bạn, chồng bạn, cha bạn hoàn toàn không phải là nhân vật lý tưởng, không phải là “vị hoàng tử cưỡi bạch mã”, và chính bạn cũng là một người trần mắt thịt chứ không phải là thiên thần gì. Cho nên phải cảm nhận con người đúng như bản chất của người ấy, phải yêu con người với toàn bộ tính cách vốn có của người ấy, phải tha thứ những cái tưởng chừng như không thể tha thứ được. Họ là như vậy đấy - thế là xong! Bạn chẳng có người nào khác nữa đâu. Nói đúng hơn, nếu bạn có tìm ra những người khác chăng nữa thì họ cũng vẫn có... khuyết điểm này hay khuyết điểm khác, mà có khi còn tồi tệ hơn nữa. Như người ta thường nói: “Vợ thứ nhất là Trời cho, vợ thứ hai là quỷ cho”. Có một người cưới vợ nhiều lần đã kể chuyện với tôi: cứ mỗi lần lấy vợ mới thì bà sau đều tồi hơn bà trước. Sau nhiều năm ông ta mới hiểu được rằng đáng lẽ ngay từ đầu phải xây dựng cuộc sống gia đình với người vợ thứ nhất, nhưng khi hiểu ra thì đã quá muộn rồi! Và thế là bạn cũng phải cam chịu sống với những người nhà của mình, và họ thì phải chịu sống với bạn. Như người ta nói: “Nếu vua không thích dân của mình thì xin vua cứ việc đi tìm dân khác”. Lẽ nào bạn muốn vào ở trong tu viện à? Cả ở đấy cũng vẫn phải tiếp xúc với người khác cơ mà, đó là chưa nói đến đủ thứ khổ hạnh của nhà tu sĩ! Cho nên bạn hãy bình tĩnh lại và hãy sống bên cạnh những người thân, cho dù bạn có cảm thấy khó sống và bực bội đi chăng nữa. Đừng có giận dữ, thất vọng hay phản đối, mà hãy bình tĩnh và kiên trì làm công việc của mình. Chỉ khi đó bạn mới trở nên mạnh mẽ hơn và có thể vượt qua được những khó khăn ngày càng lớn. Chỉ khi đó bạn mới vươn lên cấp độ mới về mặt tinh thần và hiểu thấu đáo, sâu sắc câu tục ngữ: “Trong hai người cãi nhau, người có lỗi là người thông minh hơn”. Và chỉ khi đó bạn mới cảm thấy mình đã trưởng thành, vững vàng, hoàn chỉnh và thật sự là người có hạnh phúc.

Nói với các bậc cha mẹ, ông bà

Quý vị thân mến! Hãy kiên nhẫn, bao dung lẫn nhau, nhất là với con cháu các vị. Tôi khuyên các vị và con cháu quý vị luôn luôn nhớ những giới luật sau: “Hãy tôn kính cha mẹ ngươi...”. (Tân Ước. Thư của Phao-lô gửi cho người Ê-phê-sô. 6.2) “Hỡi các người làm cha, chớ chọc cho con cái mình giận dữ...”. (Tân Ước. Thư của Phao-lô gửi cho người Ê-phê-sô. 6.4). Trong tiếng Việt có một thành ngữ rất hay, nói lên mối quan hệ tương hỗ cần có giữa người với người, trong gia đình cũng như ngoài xã hội: “Kính trên, nhường dưới”. Có nghĩa là người dưới – nhỏ tuổi, trẻ tuổi, con cái, cháu chắt... phải biết tôn kính, trọng nể người lớn, cụ thể là các anh, các chị, cha mẹ, ông bà, cụ kỵ, chú bác, cô cậu, các bậc trưởng thượng. Còn người lớn, người trên, người nhiều tuổi hơn, các bậc trưởng thượng thì phải rộng lòng, quan tâm, bao dung, độ lượng, nhường nhịn người dưới, trẻ tuổi hơn, như các em, các con, các cháu, các lớp hậu sinh. Dĩ nhiên, thời đại đổi thay, mối quan hệ tương hỗ kia cũng thay đổi, nhưng cái thực chất nhân bản của truyền thống đạo lý làm người rất cần phải trân quý, gìn giữ và thực hành để tạo nên sự hài hoà trong cuộc sống con người.

Chương 8 NỖI CÔ ĐƠN VÀ... TÌNH YÊU

Phần đông người ta đều rất sợ cô đơn. Đặc biệt là những người trẻ nhất, già nhất hay có đặc tính tâm lý nhất định: những người nhi tính (từ ngữ tâm lý học, người lớn mà tính trẻ con – ND), những người khiếm khuyết về mặt tâm lý, có tâm thần không ổn định và dễ bị thương tổn. Không phải ngẫu nhiên mà để bù đắp cái tình cảm cô đơn, những người thô thiển, đơn sơ nhất thường hay liên kết với nhau thành nhóm, bầy đàn, băng đảng hay hội đoàn để cùng nhau uống bia, uống rượu, cùng nhau đi nhảy disco hay xem bóng đá với ý đồ gây gổ, ẩu đả nhau, v.v... Điều quan trọng trong nhóm này là mỗi người cảm thấy mình được như mọi người, cảm thấy mình là một thành phần của khối lớn, toàn vẹn và hùng mạnh. Bởi vậy, nếu thiếu sự hỗ trợ của băng nhóm thì mỗi thành viên trong băng nhóm cảm thấy mình không là cái gì cả, quá thô thiển, đơn sơ, thiếu tự lập và chẳng ai thèm để ý đến cả. Quả là cái ý hướng hành động trong bầy đàn, băng nhóm, trong đám đông xuất phát từ thời công xã nguyên thuỷ, khi những người hang động, hoang dã buộc phải cùng nhau săn bắn, tự vệ chống kẻ thù và thú dữ, đấu tranh chống nạn lụt lội, cháy rừng hay một thiên tai nào đó. Nếu không thì họ đã không thể sống nổi. Người hang động, hoang dã đều giống nhau cả, vẫn chưa phải là một cá nhân cho nên cảm thấy mình là thành viên của bộ lạc hơn là một con người riêng biệt. Anh ta sống, suy nghĩ, hành động như tất cả mọi người xung quanh. Không ai cho phép anh ta được khác với bầy đàn, khác với đồng bọn. Thời Trung cổ, ngay tại châu Âu gọi là “văn minh” mà hàng vạn phụ nữ đẹp nhất, hoạt bát nhất, khác người thường đã bị coi là phù thuỷ và buộc phải chết cháy trên giàn hỏa thiêu. Nhưng cuộc sống hàng nghìn năm trôi qua đã thay đổi nhiều. Hiện nay, ở các nước phát triển, con người với tư cách là những cá nhân, khác nhau rất nhiều: người là giáo sư hoá học, người là nhà văn hay nhà báo, người là nhà sư hay linh mục, người là công nhân, người là nhà phát minh, chủ nhà máy, chủ trang trại, người bán hiệu thuốc, giáo viên, kẻ lang thang vô gia cư, tên tội phạm, vị chánh án, vị dân biểu, vị chủ tịch, bà mẹ đông con, sinh viên, tài xế, v.v... và v.v... Hơn nữa, một người làm bất kỳ ngành nghề hay công việc nào đều có đầy đủ thông tin và kiến thức do nhân loại để lại trong suốt thời gian tồn tại của mình. Nhờ có sách vở và xa lộ thông tin, nhờ có việc học tập qua Internet, người công nhân nếu muốn thì có thể trở thành một chuyên gia cao cấp về khảo cổ học, bà thợ dệt có khả năng trở nên người am hiểu sâu sắc về nền thi ca Pháp thời Trung cổ, vị dân biểu có thể là nhà nghiên cứu khuyển học giỏi, người lái xe có thể là một chuyên gia về hoa phong lan. Mọi người trở nên ngày một khác nhau, đã xuất hiện vô số kết hợp cá nhân tạo nên bởi điều kiện sinh sống, tính cách, sự di truyền, nghề nghiệp, sở thích và hoàn cảnh xung quanh. Chẳng ai giống ai cả. Hầu như mỗi người là một cá nhân riêng biệt. Như thế có phải là hoàn toàn khác xã hội nguyên thuỷ không? Dù thế, hiện nay vẫn còn có không ít người chậm tiến trong quá trình phát triển lịch sử, nên kiểu tâm lý của họ gấn với người nguyên thuỷ hơn là người hiện đại, mặc dù cũng như tất cả mọi người họ cũng có đủ mọi điều kiện để hoà nhập vào thời đại ngày nay. Quá trình phát triển lịch sử càng làm cho con người xa rời cái tâm lý bầy đàn và buộc phải sống trong cảnh cô đơn. Điều này cần phải hiểu, tiếp thu và chấp nhận. Bây giờ tôi muốn nói rõ hơn và cụ thể hơn cái ý này của tôi. Đối với bất kỳ người nào trong chúng ta thì ai là người gần gũi, hiền lành và tốt bụng nhất? Tất nhiên là người mẹ. Bà hiểu được tất cả và có thể tha thứ, bà làm mọi việc để cho con mình được sung sướng, bình an, ấm cúng, để nó mạnh khỏe, thoả mãn và hạnh phúc cho dù tuổi nó đã sáu mươi rồi chăng nữa. Thế mà nhiều người có được sự thông hiểu lẫn nhau với người mẹ của chính mình hay không? Có bao nhiêu là scandal, giận hờn, cãi cọ nhau và thậm chí đôi khi con giết mẹ hoặc ngược lại. Sự thông hiểu lẫn nhau, tình bạn giữa người mẹ và người con lớn tuổi là hiện tượng gần như ngoại lệ chứ không phải là phổ biến. Nếu sự hiểu biết lẫn nhau với các bậc cha mẹ khó như thế thì còn nói gì đến người xa lạ, không cùng huyết thống. Thậm chí người bạn (nếu có, vì không phải ai cũng có bạn) không phải lúc nào cũng hiểu được bạn và tiếc rằng trong tình bạn cũng có nhiều giận dỗi, cãi cọ hay phản bội. Con người mơ ước tìm được một tình bạn và tình yêu chân chính để người bạn hay người yêu hiểu mình, để bên cạnh mình luôn luôn có một người tâm sự, luôn luôn có thể trông cậy hoàn toàn vào người ấy. Than ôi, gặp một người như vậy dễ chừng còn khó hơn là tìm được sự thông hiểu hoàn toàn ở chính bố mẹ đẻ. Để có được sự thông hiểu hoàn toàn thì phải gặp chính người ... giống mình như hệt. Vì người khác thì đúng là người khác! Và họ hoàn toàn có quyền như thế. Người đó có thế giới nội tâm khác, có cảm xúc, hiểu biết và nhận thức theo kiểu khác, chứ không phải giống như bạn, nhất là nếu không phải nam giới tìm hiểu nam giới hay nữ giới tìm hiểu nữ giới, mà hai người khác giới muốn tìm hiểu nhau. Quả là tâm lý, phản ứng, tình cảm, nếp suy nghĩ và cách hành xử của nam giới và nữ giới hết sức khác nhau. Vì thế không nên nuôi ảo tưởng, không nên tìm cái không có và không thể có được. Không nên khổ đau vì trong đầu bạn đã hình thành những ảo tưởng phi thực tế mà bạn nhất định muốn chúng trở thành hiện thực. Như tôi đã nói trước đây, không nên đòi hỏi ở người khác những điều họ không thể có, những điều quá sức họ, những điều mà dù có muốn mấy chăng nữa, họ cũng không thể hiến tặng bạn được. Hay ít ra, người ta không thể hiến tặng cho bạn ngay, vì quen biết chưa được lâu. Cho nên chính bạn phải giáo dục, dạy dỗ, tạo dựng “người gần gũi nhất” (người bạn, người yêu, con cái của bạn). Để làm việc này phải tốn hàng năm, hàng chục năm và có khi là cả cuộc đời. Sự hiểu biết lẫn nhau giữa bạn bè, người yêu, con cái được xây dựng với giá của những nỗ lực, kiên trì, nhường nhịn to lớn và cả ... lòng hy sinh, có nghĩa là bạn phải chối bỏ những đòi hỏi, tham vọng hay yêu sách vô lý (mà có khi là hoàn toàn có lý nữa cơ). Phải luôn luôn chấp nhận và yêu thương người xung quanh, nhất là những người thân, dù họ như thế nào chăng nữa. Chúng ta còn kiếm đâu ra được những người khác! Không nên sợ cô đơn và cũng không nên để nó chi phối cả cuộc đời mình. Nhiều người tự nguyện chọn lối sống cô đơn: đây là các tu sĩ, ẩn sĩ, một số nhà bác học, nhạc công, nhà văn, nhà soạn nhạc, những người đạt được đỉnh cao tài nghệ của mình, vì biết từ bỏ tất cả những gì chiếm mất thì giờ quý báu của họ. Tóm lại, càng là một cá nhân sáng tạo, một cá tính độc lập bao nhiêu thì người ấy càng ít sợ cô đơn bấy nhiêu. Hơn nữa, thỉnh thoảng sự cô đơn cũng cần thiết cho bất kỳ người nào, kể cả người bình thường nhất. Hãy tưởng tượng xem, bạn phải thường xuyên lúc nào cũng chung sống cùng phòng với ai đó, dù là một người thân nhất của bạn. Người ấy luôn luôn ở cạnh bạn: cả lúc bạn đang bị nhức đầu hay buồn ngủ, cả khi bạn đang suy tư một việc gì đấy, cần phải một mình để tập trung tư tưởng, hay khi bạn phiền muộn và buồn rầu. Người ấy luôn luôn nhìn bạn và đưa ra những nhận xét, lời khuyên, câu đùa không đúng lúc để tìm cách động viên bạn, có khi còn tỏ ra đỏng đảnh trong khi bạn không có tâm trạng nào để ý đến nữa. Cứ như vậy kéo dài hàng ngày, hàng tuần, hàng năm. Thật kinh khủng, có phải không bạn? Chẳng cần đợi đến hàng tháng hay hàng năm thì đã điên đầu rồi! Thậm chí ngay cả khi bạn và người đó không phải thường xuyên ở với nhau trong cùng một phòng, mà sống trong cùng một biệt thự lộng lẫy chăng nữa, nhiều khi vẫn thấy mệt vì có nhau. Không phải ngẫu nhiên lại có khái niệm “hai người vẫn cô đơn” hay còn gọi là “đồng sàng dị mộng”. Khi bạn cần phải chia sẻ với ai đó những cảm xúc hay lo âu của mình thì cách khá tốt là nói chuyện bằng điện thoại với người bạn (người mẹ, đồng nghiệp). Hay là ghi chép những ý nghĩ của mình vào sổ nhật ký. Thậm chí có thể chuyển sang làm việc khác: đọc cuốn sách hay, đi trượt tuyết, đi xem hát (xem bảo tàng, xem phim, xem triển lãm), ăn kem hay sô-cô-la, chơi đàn, đánh máy, vào mạng Internet, gọt khoai tây, may áo, trồng lại cây cảnh, chạy quanh nhà, sửa cái tủ, đi tắm, nói tóm lại là ai thích gì thì hãy làm việc ấy. Và khi đó, tâm trạng của bạn sẽ thanh thản hơn và bạn sẽ hiểu ra rằng cuộc sống không đến nỗi bi đát lắm. Hàng triệu người cũng sống cô đơn như vậy và cảm thấy rất bình thường. Bởi vì, đúng là họ đang sống theo kiểu hoàn toàn bình thường trong thời đại ngày nay. Chúng ta đâu có còn sống trong xã hội nguyên thuỷ, trong chế độ gia tộc bộ lạc hay là trong chế độ phong kiến nữa, phải không? Tôi quả quyết với bạn rằng giá như bạn sống dưới thời Trung cổ trong một đại gia đình đông đúc, một nhà ba thế hệ, bên cạnh ông bà, các cô bác, các chú dì, cháu chắt, với người cha độc đoán và là người chủ khắt nghiệt của cả nhà, có quyền lực tối thượng đối với mọi người trong nhà, đồng thời có cả người chồng (vợ) và một loạt con cái của mình, thì chắc chắn bạn cảm thấy tình cảnh ấy còn tồi tệ hơn bây giờ nhiều. Ngày xưa, hầu như không có thói quen chia sẻ tâm sự với nhau. Vì từ sáng sớm đến tối mịt, người ta phải bận rộn với nhiệm vụ và công việc lao động nặng nhọc, chứ có hơi sức đâu mà tâm sự tâm siết gì. Mỗi người đều biết rõ và cả đời thực hiện cái vai trò xã hội của mình mà không hề hy vọng ở điều gì khác, cho dù họ có cảm thấy khổ sở cả về mặt tinh thần lẫn về mặt thể xác. Khác với các thế hệ trước, hiện nay các bạn đều có quyền lựa chọn: bạn có thể đổi nhà, chọn nghề, chọn công việc, nếp sống, bạn có thể tìm những người quen mới, chọn chỗ ở mới và thậm chí chọn nước cư trú cho mình. Tất cả đều tuỳ thuộc vào bạn, nhưng có lẽ bạn sẽ không làm gì cả, vì chỉ có rất ít người, những người đặc biệt quyết tâm và có máu mạo hiểm, mới có thể liều lĩnh thay đổi tất cả với nguy cơ có thể mất tất cả. Còn phần đông, vì lười biếng, nhát gan hay nói đúng hơn vì có đầu óc tỉnh táo, nên giữ nguyên mọi thứ như cũ, và như thế là họ hành động hoàn toàn đúng. Không nên “đứng núi này trông núi nọ”. Cần phải biết xây dựng cuộc sống của mình tại nơi mình đang ở và biết quý những thứ đã có. Không nên thay đổi số người thân cận, nếu họ không có gì xấu, mà phải tự thay đổi mình, thay đổi quan niệm về cuộc sống và về những người thân. Đừng nên chạy đôn chạy đáo khắp nơi để tìm kiếm sự đồng cảm, thông hiểu và tình thương, không nên van lơn người khác để cầu xin tất cả những thứ ấy ở những người hoàn toàn xa lạ. Chỉ có những người yếu hèn hay quá ngây thơ mới làm như vậy. Hãy cố gắng làm một người có ý chí mạnh mẽ hơn và chỉ khi đó cuộc đời mới dành cho bạn những điều tốt đẹp hơn. Bạn sẽ cảm thấy mình là người chủ cuộc sống chứ không phải kẻ xin xỏ đáng thương những phúc lợi ảo tưởng. Và khi đó, tất cả những điều bạn mơ ước sẽ tự đến với bạn. Bạn tìm kiếm sự thông hiểu và đồng cảm ư? Thế thì những người khác có thường thấy ở chính bạn những thứ đó chăng? Hãy thử theo dõi mình một thời gian xem. Bạn không thích người này vì tham lam, người khác vì tự kiêu, người nọ vì ngu dốt (hay khoe mẽ, độc địa, ích kỷ, v.v...). Bạn không thích họ, họ không xứng đáng làm bạn hay làm người yêu của bạn. Tất nhiên, tôi rất vui mừng, vì bạn không có một nhược điểm nào, bạn quả là người lý tưởng. Thế thì tôi chỉ đặt một câu hỏi đơn giản thôi: tại sao những người xung quanh ngốc đến nỗi không nhận thấy điều này và không đổ xô tới làm bạn hay làm chồng, làm vợ của bạn? Chắc vì bạn là một người như bao người khác. Dĩ nhiên, một người bình thường với những điểm mạnh và điểm yếu của bạn, dù rằng vẻ ngoài, tính cách, nơi sống, những ham thích của của bạn có khác chăng nữa. Hãy bỏ thói cầu toàn của tuổi trẻ đi và hãy nhìn quanh mình chăm chú hơn nữa. Đừng có nghĩ một cách quá nghiêm khắc về mọi người. Bạn nên nhớ rằng, con người, nhất là những người trẻ tuổi sẽ thay đổi dần dần, và hai mươi năm sau thằng cu Hiếu ngây ngô có thể trở thành một người đàng hoàng đến mức không nhận ra nổi, một vị giáo sư đại học và tiến sĩ vật lý, một người được giải thưởng quốc tế, còn cái Quỳnh ngu ngốc cũng trở thành một người tử tế, nữ giáo viên khả kính, là mẹ của những đứa con tuyệt vời. Có thể bạn sẽ không tin tôi, nhưng chẳng ai ngăn cản bạn kiểm chứng trên kinh nghiệm sống của mình những điều tôi nói ra ở đây. Chúng ta mạnh hơn khi chúng ta cần thiết cho ai đấy. Hãy quay cuộc sống của mình 180 độ. Không chỉ chú ý quan sát những người xung quanh, mà còn cố gắng hiểu được họ, và cái chính là cố tìm những người có nhiều khó khăn hơn bạn, những người thật sự cần bạn giúp đỡ. Hãy ngồi trông con cho người phụ nữ không chồng bên nhà hàng xóm khi bà ấy phải đi gấp đến bác sĩ chữa răng. Hãy mang sữa và bánh mì đến cho bà lão cô đơn ở nhà bên cạnh. Hãy giúp em gái làm bài tập hoá. Hãy cảm thông người đồng nghiệp, khi cô ấy phải ly dị với chồng. Hãy giảng hoà hai người bạn đang cãi nhau. Hãy xách cái túi đồ lên thang giúp ông già hay người tàn tật. Và không nhất thiết chỉ giúp cho người. Hãy cứu chó con hay mèo con, hãy nhặt rác rưởi ở khu rừng bên cạnh, hãy tưới cho cây đang bị héo vì thiếu nước, hãy treo ống bơ đầy hạt hướng dương cho chim ăn trong mùa đông... Có thể làm rất nhiều việc thiện. Chỉ cần nhìn thế giới xung quanh chứ không phải độc nhìn vào nội tâm mình, đừng ấp ủ đau khổ phần lớn do mình tưởng tượng ra. Xung quanh ta có biết bao nhiêu đau khổ thật sự cơ mà! Và khi đó, mọi người nhìn bạn dưới một góc độ hoàn toàn khác. Trong đời, bạn sẽ có nhiều nụ cười hơn, nhiều tình cảm tốt đẹp, nhiều bạn bè và những người quen tốt. Bạn sẽ cảm thấy mình không còn là một kẻ bất tài tội nghiệp hay khổ sở, mà là một người năng nổ, vững mạnh mà mọi người ai cũng hướng tới. Sự cô đơn biến mất hẳn lúc nào mà chính bạn cũng không cảm thấy, kể cả khi buổi tối trở về căn nhà trống trải. Và theo tôi nghĩ, cảnh nhà trống trải có khi rồi cũng sẽ hết. Để kết thúc, tôi muốn kể về một người phụ nữ nhờ cuộc gặp gỡ tình cờ mà cô đã khôn lên và hiểu sâu cuộc sống hơn. Người phụ nữ này còn trẻ và trong câu chuyện này cô vẫn chưa trưởng thành đầy đủ về mặt tâm linh. Tất nhiên, về sau cô sẽ hiểu thêm nhiều điều và còn thay đổi. Tâm hồn cô sẽ trở nên vững mạnh hơn và sẽ tìm thấy không chỉ bản thân mình trong cuộc đời, mà còn tìm được người bạn đời đáng tin cậy nữa.


NỖI CÔ ĐƠN DÀI DẰNG DẶC

Mấy ngày liền, Tanhya đi dạo trên bãi biển. Một mình. Cô vừa đi vừa chăm chú nhìn mặt mọi người và mơ ước. Cô mơ ước hôm nay có thể gặp một người hiểu được lòng cô và trở nên gần gũi với cô. Gần gũi suốt đời. Mặc dù mơ ước như thế thật là ngốc. Nếu đến nay, cô vẫn chưa gặp được thì làm sao có thể gặp bây giờ. Cô đã băm bảy tuổi rồi chứ ít ỏi gì! Những người cô nhìn thấy xung quanh chỉ gây cho cô cảm giác ghê tởm. Họ đi trên bãi tắm từng đàn, trần trùng trục, những khuôn mặt vuông vức và đỏ gay. Họ đội mũ vải, trên ngực đeo những chiếc đài transistor kêu ầm ĩ điếc cả tai. Một số vẫn còn trắng bóc, có người sạm đen lại như dân da đen, còn những người khác thì đỏ đòng đọc vì da cháy nắng. Những con người giống nhau và trông tởm lợm thế nào ấy. Giá như có một người đàn ông nào trong bọn họ nổi hứng lên muốn làm quen và tán tỉnh cô, thì cô sẽ bỏ chạy vì kinh tởm. Nhưng không một người đàn ông nào muốn bắt chuyện với cô cả. Có nhiều người nghỉ ở đây với gia đình - vợ, chồng, con cái. Hay những cặp vợ chồng đứng tuổi. Hay là vợ chồng mới cưới. Những người này thì càng không muốn làm quen với ai hết. Đôi khi trên bãi biển cũng có những người đàn ông có thể khiến cho Tanhya thích, cô có cảm tưởng như vậy. Nhưng chẳng hiểu vì sao họ lại thường trẻ hơn cô. Họ không đi một mình. Đi cạnh họ bao giờ cũng có những cô gái trẻ xinh đẹp lượn tung tăng. So sánh mình với những cô gái ấy thì thật là buồn cười. Đã từ lâu rồi, đối với cô kỳ nghỉ phép có lẽ là khoảng thời gian buồn tẻ nhất trong năm. Lúc đó cô cảm thấy rõ hơn bao giờ hết nỗi cô đơn hay suy ngẫm nhiều về cuộc đời riêng tan vỡ của cô và muốn nhanh chóng quay trở lại chỗ làm việc. Ở đó, sẽ bắt đầu những bài giảng, những cuộc hội thảo, hội nghị khoa học, hay những chuyến đi công tác và cô chẳng có thì giờ nào nghĩ đến chuyện khác. Khi đó, cô quên luôn cả nỗi buồn của mình cho đến tận kỳ nghỉ phép năm sau. Hơn một tuần nay, Tanhya đi dạo trên bãi biển một mình. Gặp nhiều người phụ nữ cô đơn như cô vậy. Nhưng phần đông họ béo phị, già và xấu. Còn Tanhya thì biết rằng cô là người có duyên và nhìn vẻ ngoài cô không thể quá ba mươi. Và cô cảm thấy hình như họ ngạc nhiên nhìn cô với sự thương cảm. Cô đi ngang qua họ với một vẻ đàng hoàng, nhưng trong mắt cô lại đượm một nỗi buồn khôn nguôi. Mấy ngày rồi, Tanhya có một ý muốn ngày càng mạnh. Cô muốn tắm gội. Nhà tắm ở cái xóm cách xa chỗ cô nghỉ và phải đi xe lửa mới đến được. Nhưng Tanhya vẫn chần chừ chưa dám đi. Cô biết quá rõ cuộc đời khỉ gió này rồi. Cô biết chắc là nếu vào một ngày nào đó trong tuần, cô chuẩn bị xà phòng và khăn bông, sắp xếp áo váy sạch sẽ vào chậu và đi nhà tắm thì y như rằng – nhà tắm ắt sẽ phải đóng cửa. Và do đó lại mất toi nửa ngày nghỉ. Thế mà cô định nghỉ không phải bốn mươi tám ngày như đã được phép mà chỉ có ba tuần thôi, vì ở nhà cô còn hàng đống việc. Một hôm, cô được biết là cách ngôi nhà bà chủ cô đang thuê phòng có một nhà an dưỡng. Ở đó, có gian nồi hơi và có thể tắm gội thoải mái nếu trả năm mươi cô-pêch cho bác Petya, người trông coi nồi hơi. Được thế thật là tuyệt! Chẳng cần phải dẫn xác đến cái nhà tắm nào đó, mà nó có thể đóng cửa bất cứ lúc nào. Bác Petya là một ông già xấu xí. Vui mừng vì có thêm chút ít tiền thu nhập, ông cho Tanhya vào phòng tắm ngay. Ông luýnh quýnh trải những tờ báo sạch lên sàn để Tanhya khỏi bẩn chân và thậm chi còn đề nghị kỳ lưng cho cô. Khi đó cô nhận thấy rằng ông nhìn cô bằng ánh mắt sỗ sàng. Cô thấy buồn cười và đáng ghét. Cô không thể cởi áo váy được vì ông Petya không chịu ra khỏi. Lúc đó Tanhya cảm thấy bực mình thực sự. Cô thấy tiếc thì giờ bỏ phí để đến đây, mà lẽ ra cô có thể dạo chơi trên bãi biển. Vì lịch sự cô hỏi mấy câu. Thế là ông Petya mừng rỡ được dịp nói chuyện. Ông ngồi trên cái ghế dài bằng gỗ, nơi người ta để quần áo và bắt đầu kể về mình. Tanhya cũng ngồi bên cạnh lắng nghe. Lúc này cô không còn tiếc thì giờ nữa: cô thích nghe chuyện về cuộc đời người khác, vì cô luôn luôn cảm thầy đời mình nhạt nhẽo, đơn điệu. Hoá ra ông Petya tuổi cũng đã khoảng sáu mươi. Ông tham gia từ đầu đến cuối Thế chiến thứ hai và là chỉ huy tiểu đoàn cơ giới. Còn hiện nay, ông đang làm việc lĩnh một lương rưỡi, có thêm tiền hưu, như thế là cũng đủ ăn. Ông có nhà với khu vườn nhỏ. Ông tự tay trồng táo, dưa chuột, hoa hồng và các loại hoa khác, bởi vì ông rất thích hoa. Bà cụ hơn ông sáu tuổi. Đã ba lần bà suýt chết. Bà bị đau gan, nhưng cả ba lần bác sĩ đều cứu sống bà. Còn gã con trai của bà tuổi đã băm tư, nhưng chẳng hề chịu làm lụng gì cả. Đã bốn lần vào tù ra tội. Hắn chỉ biết uống rượu, đánh nhau và tống tiền người khác. Thậm chí hắn còn doạ giết bà ngoại chín mươi tuổi khi bà cho hắn ít tiền. Tanhya ngạc nhiên khi ông nói “nó là con bà ấy”. Cô hỏi lại và biết rằng ông Petya không phải là người địa phương này. Ông đến nơi đây sau khi chiến tranh vừa kết thúc và ở với bà này đã có trước một đứa con trai nhỏ. Và cứ thế ông sống cả đời bên cạnh bà ta. Thằng bé lớn lên, gọi ông là “bố”, nhưng ông không hề kết hôn với bà. Còn con riêng thì ông chưa từng có. Tanhya lại cảm thấy đáng ghét. Sống với một người phụ nữ cả đời, cùng nhau làm việc nhà, nuôi con mà chẳng chịu chính thức kết hôn với nhau. Cô nói thẳng điều ấy với ông Petya. Cô ngạc nhiên khi biết rằng chính bà ta không muốn ký giấy hôn thú với ông. Bởi vì bà là chủ của tất cả: nhà cửa, đồ gỗ, vườn tược. Bà muốn khi bà chết đi thì tất cả những thứ này chỉ một mình con bà được hưởng thôi. Trừ căn buồng bé cỏn con trên mái gác, nơi ông Petya sống. Còn nếu ký giấy chính thức thì ông Petya sẽ là người chủ toàn quyền tất cả tài sản, mà điều đó thì bà ta còn sợ hơn cả cái chết. Và cứ thế suốt đời, bà chẳng lo cho ai ngoài đứa con trai của mình. Bà sẵn sàng mua cà chua đắt tiền ở chợ lúc chưa tới mùa và làm gà đãi nó. Chứ ông chồng thì đừng có mà hòng. Ông đi làm về phải tự mình nấu nướng qua quít cái gì đấy để ăn. Mà ông ta bị bệnh loét dạ dày. Có khi còn nghẹn họng vì ức đến cổ. Ông muốn bỏ hết tất cả và đi đến một nơi nào đó. Và ông sẵn sàng bỏ đi. Nếu tìm được một người đàn bà tốt thì cho dù có đi cùng trời cuối đất ông cũng đi. Thành ra ông Petya cả đời làm việc. Ông lĩnh một lương rưỡi, cộng thêm vào đó là tiền hưu. Ở nhà ông làm tất cả, chứ bà ấy không còn làm gì được hết, còn thằng con trai thì không muốn đụng tay đụng chân vào một việc gì cả. Thế mà hoá ra ông chẳng có một tí quyền gì hết ở cái nhà này. Nói chung, ông là con số không. Không cần cho ai cả. Bây giờ ông chẳng thể đi đâu được nữa. Họ hàng thân thuộc có còn ai nữa đâu. Tanhya nhìn ông Petya và thấy bên cạnh mình không còn là ông lão xấu xí với đôi mắt sỗ sàng, mà là một con người bất hạnh, cô đơn gần như chính cô. Một người không ai cần cả - cả vợ lẫn con. Tanhya tắm gội xong, muốn đi về thì ông Petya lại đến, và lại nhìn cô với đôi mắt van lơn tội nghiệp. “Cô em ơi, cô ghé lại chỗ phòng trực của tôi một lát nhé?” – ông lão lẩm nhẩm và sờ tay cô. Tanhya lại một lần nữa cảm thấy ông lão đáng ghét. “Bác Petya, bác có vợ cơ mà”, - cô nói. Hoá ra cô lại nhầm. Ông Petya đã bốn năm trời không ăn nằm với vợ, bởi vì bà ấy sống dở chết dở lâu ngày rồi. Tanhya nhìn ông Petya: cái thân hình gầy nhom, cặp lông mày bạc trắng, những sợi râu bạc tua tủa trên đôi má tóp và cái răng vàng lấp loáng giữa những chiếc răng đều đặn như nhau - chắc là răng giả. “Chẳng lẽ đến tuổi này mà vẫn còn ham muốn hay sao?” – cô ngạc nhiên hỏi. “Muốn chứ, tất nhiên là vẫn muốn lắm chứ! – ông Petya buồn rầu nói. – Đôi khi muốn đến điên người lên. Mà chẳng làm sao được. Ở đây mọi người đều biết tôi cả. Và thế là cứ khổ mãi. Chỉ có uống rượu say mới cảm thấy hình như dễ chịu hơn một chút”. Tanhya do dự chỉ trong vài giây. Thật ra, đối với cô thì thế nào cũng được, vả lại, người ta thì đau khổ. Thế là cô bước vào phòng trực của ông. Ở đây, có một cái bàn nhỏ, cô thấy trên bàn có một cái đài transistor bé xíu, hàng đống báo và cái kính lão. Bên cạnh bàn là cái giường hẹp giải bằng một tấm vải màu xanh. Cô cởi áo váy và lên giường nằm. Cô hoàn toàn chẳng thấy xấu hổ gì cả khi nằm trần truồng trước một người không hề quen biết mà cô mới gặp lần đầu tiên. Ông Petya hớt hải cởi quần áo và hình như ông cuống lên vì mừng quá. Người ông sặc sụa mùi mồ hôi, cổ ông nhăn nheo và móng tay ông đen đủi vì than. Ông âu yếm nhìn Tanhya và buồn rầu nói rằng đáng lẽ hôm nay đừng uống rượu. Sáng nay, có mấy tay thợ đến sửa ống nước và không thể không đãi rượu họ. Và tất nhiên, cũng phải uống với họ. Giá mà biết trước được rằng niềm hạnh phúc lớn thế sẽ đến với ông! Trong phòng trực rất nóng và oi bức, vì thế ông Petya chóng mệt. Trong lúc nghỉ, ông thẹn thùng phân trần với Tanhya rằng tất cả chỉ vì rượu vodka mà ông mới uống chút xíu thôi và cứ không ngớt miệng xin cô tha lỗi vì đã hành hạ cô lâu đến thế. Sau đó, ông tỏ ý không muốn Tanhya về ngay và nài nỉ cô ở lại với ông dù chỉ một lát thôi. Ông âu yếm nhìn cô và cứ hỏi làm thế nào ông có thể đền ơn cô được. “Hay là cô hết tiền rồi. Thì tôi rút tiền tiết kiệm đưa cho cô nhé, tôi có tiền mà”, - ông nói với hy vọng cô sẽ nhận, nhưng ông buồn rầu khi Tanhya nói rằng tiền cô vẫn còn. Ông còn muốn mua cho cô cái chuỗi hạt bằng hổ phách. Hay chẳng hạn, một đôi giày, tuỳ ý cô. Nhưng Tanhya lại nói là cô đã đủ có tất cả và chẳng cần gì hết. Tanhya đã mấy lần định ra về, nhưng mỗi lần như vậy ông lại nhìn cô bằng đôi mắt van lơn và giữ cô lại. Mai là ngày nghỉ của ông và ông muốn cùng cô đi ra bờ sông hay vào rừng dạo chơi. Nhưng một lần nữa Tanhya lại từ chối. “Hay là cô sẽ đến vào ngày kia nhé?” – ông hỏi một cách tuyệt vọng và gần như khóc khi nghe Tanhya nói rằng cô sẽ không bao giờ đến nữa. Trông ông già thiểu não thật tội nghiệp. Sự âu yếm của ông làm Tanhya rất ngạc nhiên. Ông nhìn cô với lòng mến yêu và tôn thờ. Ông chẳng biết phải đền ơn cô như thế nào và hết sức buồn rầu, khi cô từ chối không nhận thậm chí mấy quả dưa chuột mà ông định bỏ vào túi xách của cô. Đây là những quả dưa chuột do chính tay ông trồng trong vườn. Thật ra ông có đủ lý do để khinh cô, nhưng ông đã hoàn toàn không nghĩ đến điều đó. Trái lại, ông nói với Tanhya rằng ông có lỗi với cô, vì đã rủ cô làm chuyện này, và cô lấy làm lạ khi nghe thế. Ông tưởng cô vẫn còn trẻ và rất đỗi ngạc nhiên khi biết cô đã băm bảy tuổi rồi. Biết thế nhưng vẫn gọi cô một cách buồn cười là “đứa bé yêu”. Ông trầm trồ thán phục thân hình, khuôn mặt và mái tóc của cô. “Làm sao cô lại trẻ thế, trông cô không thể hơn hăm lăm tuổi được? Thế mà tôi nghe nói là đàn bà đi ngoại tình thì chóng già”. Tanhya không biết trả lời thế nào mà chỉ bật cười thôi. Làm sao ông có thể tin được là suốt cả bốn năm trời cô đã không ăn nằm với ai, kể từ khi cô bỏ chồng. Và thật ra điều này chẳng có liên quan gì với ông cả. Không bao giờ ông có thể hiểu nổi cả cuộc đời, cả ý nghĩ lẫn những điều lo âu của cô. Đến khi cô dứt khoát định về hẳn, ông Petya không tìm cách giữ cô nữa. Ông thôi không xin cô ra quán ăn hay đến với ông ngày mai. Ông im lặng nhìn cô với đôi mắt buồn rầu, thất vọng. Ông chỉ nghe cô nói và ủ rũ gật đầu. Cô khuyên ông không nên vứt bỏ tất cả mọi thứ ở đây mà đi theo cô đến tận cùng trời cuối đất. Tanhya nói rằng cô không thể đăng ký kết hôn với ông cho dù hộ chiếu của ông vẫn còn trắng trơn. Còn trong hộ chiếu của cô vẫn còn con dấu. Cô đăng ký với người đàn ông mà đã từ lâu cô chỉ thấy ghét cay ghét đắng. Đó là sự thật. Cô nói rằng mỗi người đều có cuộc sống riêng của mình và cái chuyện vừa xảy ra ấy chỉ là sự tình cờ mà thôi. “Trời ơi, tôi sống sao được khi không còn em nữa?” – ông Petya chỉ nói vậy khi Tanhya ra về. Cô đi trên bãi biển và nghĩ về ông Petya và bản thân mình. Sao lại thế nhĩ, ông sẵn sàng hiến dâng toàn bộ con người và tâm hồn mình cho cô, thế mà cái tâm hồn ấy cô hoàn toàn chẳng cần đến. Tất nhiên, ông đã già và kém văn hoá. Và họ chẳng có cái gì chung cả. Ngoài cuộc gặp gỡ tình cờ nọ. Tâm hồn ông chất phác và thô sơ. Nhưng tâm hồn đó là cái duy nhất mà ông có và ông sẵn sàng hiến dâng tất cả cho cô. Hiến dâng toàn bộ và ngay lập tức. Thế mà bản thân cô cũng như người vợ hiện nay của ông lại hoàn toàn chẳng cần đến ông và cả tâm hồn ông đang khao khát sự đồng cảm. Và cô cũng thế, chẳng cần cho ai hết. Ngoài ông Petya. Nhưng chuyện này nghĩ đến chẳng để làm chi cả! Tanhya đi trên bãi biển và không còn nhìn những người đi ngược lại với cô nữa. Cô hoàn toàn không muốn ai làm quen với cô cả. Vì bây giờ cô biết rằng cho dù có một ai đó ở cạnh cô chăng nữa thì cô vẫn cứ cô đơn. Hoàn toàn cô đơn. Cũng như trước đây, như mọi khi…

  • * *

Xin bàn qua về tình yêu. Người ta đã nói nhiều về tình yêu. Nói quá nhiều. Người ta nói về nó từ thời cổ đại lẫn thời Trung cổ cho đến ngày nay. Cả ở châu Á, châu Phi và châu Âu. Nhưng, nó chưa bao giờ đóng vai trò to lớn mà nghệ thuật gán cho nó. Nó thường thể hiện rõ nét ở lớp người giàu có và có học vấn, tóm lại là những người no cơm ấm áo. Chẳng hạn, ở châu Phi hay đâu đó nữa, ngay cả hiện nay hằng năm vẫn có hàng triệu người đương thời với chúng ta chết vì đói, bệnh tật, lũ lụt, cháy rừng, hạn hán hay những cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc, thì cái điều duy nhất khiến họ quan tâm là làm thế nào để cứu được sinh mạng mình, chứ không phải là “tìm được người yêu dấu duy nhất do số phận ban cho”, điều mà thanh niên các nước phát triển ước mơ, may mắn cho lớp người này là họ chưa hề biết đến đói rét, diệt chủng hay nghèo nàn. Có thể tưởng rằng họ có hạnh phúc, nhưng tiếc thay, điều đó không đúng. Bởi vì, nếu con người không bị đói, không bị thương bởi mũi tên hòn đạn của bộ lạc thù địch thì lại nảy ra những nhu cầu khác mà nếu không thoả mãn được thì người ấy vẫn cảm thấy mình bất hạnh. Chúng ta hãy nhớ lại chuyện cổ tích của thi hào Pushkin về ông lão đánh cá và con cá vàng.

Ngày xưa, có một ông lão đánh cá sống với vợ trong túp lều lụp xụp bên bờ biển. Hai vợ chồng nghèo, vất vả làm lụng quanh năm để kiếm sống. Một hôm, ông lão ra biển chài cá, còn bà vợ ngồi trước lều bên cạnh cái máng gỗ vỡ chờ ông. Ông ném lưới. Mẻ lưới đầu chẳng được con cá nào cả. Ông tung lưới lần nữa, cả mẻ lưới này cũng chẳng có gì. Đến mẻ lưới thứ ba thì thấy một con cá vàng giãy giụa trong lưới. Ông lão mừng rỡ đưa tay bắt cá, toan bỏ vào giỏ, thì... ông rất đỗi ngạc nhiên, con cá vàng thỏ thẻ van lơn: “Xin ông thả tôi ra, tôi sẽ thực hiện mọi điều ước của ông. Ông muốn gì, tôi xin làm nấy”. Ông lão ngần ngừ một lúc, rồi buông tay thả cá ra biển. Cá ngoi lên mặt nước và hỏi: “Vậy ông muốn gì?” Ông lão suy nghĩ một lúc rồi bảo cá: “Lão muốn có cái máng gỗ mới, lành lặn thay cho cái máng cũ đã vỡ!” Cá vàng quẫy đuôi một cái. Ông lão trở về nhà, quả thật là trước lều đã có cái máng gỗ mới nguyên. Ông kể chuyện cho vợ nghe. Bà vợ nổi giận, quát mắng té tát: “Đồ ngu! Chẳng biết cái gì cả ! Tôi không cần cái của nợ này đâu! Chạy nhanh ngay ra bờ biển, bảo cá là tôi cần cái nhà mới cơ!” Ông lão lại ba chân bốn cẳng chạy ra bờ biển. Cá nổi lên mặt nước và hỏi: “Vậy ông còn muốn chi nữa?” Ông nói lời ước. Cá lại quẫy đuôi, và ông lão chạy về nhà thì thấy một ngôi nhà mới xinh đẹp. Ông mừng rơn. Chưa hết mừng thì trong nhà bà vợ đi ra, hét to: “Tôi chẳng cần nhà này đâu. Ông chạy ra biển, bảo ngay với cá vàng là tôi muốn làm nhà nữ quý tộc giàu có cơ!” Ông lão lại lật đật chạy ra bờ biển, gọi cá vàng và bảo: “Cá ơi! Vợ lão muốn làm nữ quý tộc, nhà cửa giàu có, của cải thừa mứa, áo xống đẹp đẽ cơ!” Cá lại quẫy đuôi rõ mạnh một cái. Ông lão lại vội vã chạy về nhà thì đã thấy nhà cửa khang trang, thóc lúa đầy kho, còn bà vợ thì ăn mặc đẹp đẽ. Vừa thấy mặt ông, bà lão đã quát nạt ầm lên, sai ông làm phu trông coi chuồng ngựa. Nhưng rồi bà lại nảy ra ý mới, bèn bảo ông: “Những thứ này ta chẳng thích đâu. Ta muốn trở thành bậc nữ đại quý tộc giàu sang và quyền thế nhất vùng! Chẳng phải là nhà cửa như thế này, mà là lâu đài sang trọng, xe cộ quý giá, đầy tớ đông đúc, của cải đầy nhà cơ! Lão hãy chạy đi ngay và nói với cá như thế cho ta!” Ông lão muốn cãi lại, nhưng bà càng nổi giận quát tháo, đuổi ông ra khỏi nhà và bắt ông chạy đi nói điều ước đó. Ông lão lại phải vội vàng đến bờ biển, thấy cá vàng hiện lên mặt nước. Ông nói: “Vợ lão lại đổi ý!” Ông kể lại lời ước mới của vợ. Cá nhỏ nhẹ đáp: “Được thôi!” Rồi quẫy đuôi một cái thật mạnh. Ông lão chạy vội về nhà, thấy vợ ông đã là bà đại quý tộc ăn mặc lộng lẫy, ngồi chễm chệ trên sập sơn son thếp vàng trong toà lâu đài cao sang, xung quanh kẻ hầu người hạ, tiếng vâng vâng dạ dạ ầm vang. Vừa mới bước vào nhà, ông đã nghe tiếng bà lão quát tháo ầm ĩ: “Thế này vẫn chưa vừa ý tao, tao muốn trở thành nữ hoàng cơ! Mà là nữ hoàng biển cả cơ! Còn cá vàng phải là kẻ hầu hạ cho tao! Lão chạy nhanh ra bờ biển gọi cá vàng lên bảo là tao muốn thế! Tao chỉ muốn làm nữ hoàng biển cả mà thôi!” Ông lão thấy vợ tham lam quá, bèn lựa lời nhỏ nhẻ với bà: “Bà nó ơi, bà tham vừa vừa chứ! Bà nó có điên hay không? Thế này cũng đã quý lắm rồi. Thôi, bà nó ạ!” Nhưng bà lão không chịu nghe gì hết, nổi giận đùng đùng, chửi mắng ông càng thậm tệ hơn nữa, bắt ông phải chạy đi nói lời ước mới. Ông lão miễn cưỡng bước đi, lòng buồn rầu nặng trĩu. Đến bờ, thấy cá hiện lên, ông đành thuật lại mọi điều với cá. Nghe xong, cá vàng ngậm thinh, thở dài một tiếng rõ kêu, rồi lặn xuống nước, không còn quẫy đuôi như mấy lần trước nữa. Ông lão đánh cá thất thểu lê bước về nhà. Ông lại thấy túp lều lụp xụp của ông vẫn ở chỗ cũ. Vợ ông vẫn ngồi bên cạnh cái máng gỗ vỡ chờ ông. Cả hai ông bà vẫn mặc quần áo rách tổ đỉa như trước đây.

Tính con người ta phần đông thường là như vậy đó. Chẳng làm sao được cả. Được voi, đòi tiên! Không hiểu vì sao họ lại không muốn sống hạnh phúc, không chịu thoả mãn với hạnh phúc đang có được trong tay, cho dù họ có sống sung sướng đến mấy chăng nữa! Tại sao tôi lại viết là người ta nói quá nhiều về tình yêu? Một mặt, vì trong cuộc sống còn có nhiều thứ khác đáng nói, đáng nghĩ, đáng dành thì giờ, nghị lực và tâm hồn của mình cho chúng. Mặt khác, sách truyện và phim ảnh gây ra cảm giác rằng nếu con người không có cái gọi là tình yêu thì người đó gần như không bình thường, không giống mọi người khác và hầu như là khuyết tật thế nào ấy. Chúng ta đang sống không phải trong xã hội nguyên thuỷ hay thời kỳ Trung cổ, khi mọi thứ đều được quy định nghiêm ngặt tuỳ theo đẳng cấp, và con người từ thế hệ này sang thế hệ khác bắt buộc phải lặp lại cuộc sống của cha ông, của những người xung quanh. Có nghĩa là đến lúc nào đó thì nhất định phải cưới vợ, lấy chồng, sinh con đẻ cái, cày ruộng (may áo quần, rèn cuốc xẻng... tuỳ theo nghề nghiệp của gia đình), làm nhà, đi nhà thờ, chôn cất người chết, cưới vợ gã chồng cho con cái (tất nhiên là tuỳ theo sự lựa chọn của cha mẹ chứ không phải tuỳ theo tình cảm yêu thương của con cái). Phải thờ cha kính mẹ, trọng nể họ tộc, im lặng khi có mặt người lớn tuổi, làm việc đầu tắt mặt tối, không làm điều bậy bạ, như đọc sách, hướng tới điều gì đó, mơ ước về điều ảo tưởng, yêu không đúng đối tượng, nhất là yêu “người lạ” hay là người xuất thân từ dòng tộc thù địch, như Montaigus hay là Capulets trong bi kịch “Roméo và Juliette” của Shakespeare … Bạn hiểu ý tôi chứ? Nhiều thế hệ con người đã và đang sống trên các lục địa khác nhau mà vẫn không hình dung được cái khái niệm “tình yêu”. Vì tình yêu là thành quả của xã hội phát triển của loài người. Tình yêu là sự tổng hợp bí ẩn, đến nay chưa ai giải thích nổi - kể cả các nhà văn lẫn các nhà khoa học - của sinh lý (thân thể), cảm xúc (tâm hồn) và lý trí (trí tuệ). Nó xuất hiện ban đầu ở những tầng lớp có học thức, phát triển về mặt trí tuệ và no đủ nhất trong xã hội, rồi sau đó mới lan truyền rộng ở tầng lớp bình dân. Ngày nay, cũng có người (không ít đâu!) mà tâm lý của họ còn gần với tâm lý người nguyên thuỷ, cho nên không phải ai trong chúng ta cũng biết yêu. Chúng ta dù sống trong cùng một thời đại, nhưng lại vô cùng khác nhau. Dễ hiểu là ở những người thô thiển, loại cơ sở, thì quan hệ chủ yếu đối với người giới khác dựa vào sinh lý, hay ít ra là sự tính toán và ý muốn được giống như mọi người khác. Ở thái cực khác, là những người phát triển phiến diện, đơn thuần về mặt trí tuệ, những người suốt đời chỉ biết say mê một ý tưởng nào đó của họ, như một số nhà soạn nhạc, nhà thơ, nhà khoa học, nhà sáng chế. Đối với một số người vừa nói thì tình yêu chỉ là vật cản trên con đường hoạt động của họ. Những người như vậy cũng không biết yêu hay hãn hữu lắm họ yêu một cách lý tưởng, yêu cao thượng hoặc do trí tưởng tượng mà ra, và đối với họ, không có tình yêu cũng chẳng sao cả. Các phương tiện thông tin đại chúng thổi phồng quá đáng những đề tài, như mơ ước tình yêu, khát vọng tình yêu, sự cần thiết của tình yêu đối với tất cả mọi người không trừ một ai cả. Hơn nữa, tình yêu đến không phải theo đơn đặt hàng, đến không biết từ đâu và biến mất không biết đi đâu. Khó nói được điều gì tốt hơn: cả đời là “nô lệ tình yêu”, bất chấp lý trí, buông trôi theo tình cảm điên cuồng, hay là đau khổ vì tình yêu không được đáp ứng, hay là hoàn toàn không bao giờ biết tình yêu là cái gì. Dù sao chăng nữa, thông thường thì hôn nhân theo tính toán vẫn bền vững hơn nhiều so với hôn nhân theo tình yêu, vì không phải dựa trên lửa tình hừng hực mà là trên “cái đầu lạnh”. Cũng cần phải thừa nhận rằng một số người hoàn toàn không thích hợp với hôn nhân và gia đình, thậm chí họ không muốn có quan hệ tình dục với người khác giới. Không nên bắt những người như vậy phải lập gia đình hay cười chê họ và coi họ là những người không bình thường. Họ là như vậy. Thế thôi! Đây là việc riêng, là cái kiểu tâm lý đặc biệt của họ. Ngày nay, chúng ta có hạnh phúc lớn là có quyền được sống theo kiểu tâm lý riêng, dù nó khác hẳn với những người khác, và ai cũng có quyền sống theo cách của mình. Những người không bình thường, nếu bị cha mẹ khuyên nhủ hay ép buộc, thì dù có lập gia đình chăng nữa cũng không thể nào đem lại hạnh phúc cả cho mình lẫn cho gia đình mình, và thường cuối cùng vẫn là ly hôn. Về điều này, chúng ta có thể nhớ lại một người trong chuyện tiếu lâm đã nói trước khi chết: “Sao tôi chẳng khát nước tí gì cả” (xem chương sáu). Chuyện tiếu lâm đúng biết bao! Xã hội hiện đại ở các nước phát triển trở nên khoan dung đến nỗi cách đây không lâu ở Đức người ta chính thức cho phép những người đồng tính đăng ký kết hôn. Và điều đó hoàn toàn đúng - việc gì bắt con người phải đau khổ, họ chẳng gây hại cho ai hết mà lại có hạnh phúc với nhau. Tất nhiên, hai người thuộc bất cứ giới nào yêu nhau thì vẫn tốt hơn gấp bội so với hai người thù hận, ẩu đả hay chém giết nhau. Đó là điều nghịch lý trong tư duy của con người: hai người đàn ông bắn giết nhau thì không bao giờ làm người ta ngạc nhiên hay khó chịu, trong khi đó hai người nam giới yêu nhau thì lại gây nên sự căm phẫn, hoàn toàn không chấp nhận, thậm chí kết án tử hình như trong các thế kỷ trước và cũng như ở một số nước cho đến tận bây giờ. Cho nên, tôi khuyên các bạn trẻ không nên vội vàng và đừng tự ty: tình yêu có thể đến bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở lứa tuổi nào và tình yêu không phải bao giờ cũng đem lại hạnh phúc. Nhiều khi tình yêu đến mãnh liệt như cơn lốc phá vỡ cuộc sống bình thường, phá vỡ những quan hệ có sẵn từ trước, làm đảo lộn tất cả, khiến con người mất đi cách nhìn tỉnh táo trong cuộc sống, v.v… Và cũng có thể là tình yêu không bao giờ đến. Và như vậy cũng không phải là thảm hoạ. Trường hợp này cũng có nhiều cách giải quyết. Có thể trở nên một người vững mạnh, có tâm hồn sâu sắc và phong phú, hoàn toàn tự lập, có sở thích độc đáo và tinh thần sáng tạo. Tất nhiên, không phải ai cũng làm được như thế - đó là số phận của một số ít người. Cũng có thể - nếu bạn chấp nhận được - là kết hôn theo tính toán, theo “lá thư hồng tìm bạn” đăng trên báo hay theo mai mối, dù điều này thoạt nghe có vẻ cổ lỗ sĩ. Cũng có thể đó là những cuộc hôn nhân khá thành công và về sau, thậm chí - ai biết trước được - sẽ đem lại hạnh phúc cho bạn. Trong việc hoàn toàn cá nhân này, cái chính là phải tự quyết định, chứ không nghe lời khuyên nhủ hay trách cứ của họ hàng hay người thân. Mỗi người đều biết mình rõ hơn ai hết, người ấy sống cuộc đời riêng, duy nhất và có một không hai, chứ không phải sống cuộc đời của ai khác hay cuộc đời do ai ép buộc. Và người ấy hoàn toàn có quyền làm như thế. Tất nhiên, tình yêu là niềm hạnh phúc lớn. Nó chắp cánh, tạo nên sức mạnh, nguồn cảm hứng và làm cho con người có hạnh phúc. Nhưng… ở đây có rất nhiều cái “nhưng”! Điều nói trên là đúng, nhưng với rất nhiều điều kiện: nếu là tình yêu chân thành, nếu bạn đời là một người tốt, chứ không phải thằng đểu, kẻ vô liêm sỉ, kẻ bạo dâm, bợm rượu, bợm nghiện ma tuý, v.v…, nếu tình yêu bền chặt, nếu có sự luyến ái lẫn nhau, nếu… Chẳng có tình yêu nào được bảo đảm không có hiểu nhầm, thất vọng, cắt đứt, đau khổ và thậm chí là kết cục bi thảm. Cho nên đừng có lý tưởng hoá tình yêu, điên cuồng yêu hoặc chờ đợi tình yêu. Vì phim ảnh và truyện tình cũng chỉ là phim ảnh và truyện tình mà thôi, trong khi cuộc đời thật thì hơi khác hoặc là khác hẳn. Đầu óc lý tưởng quá mức hay ngây thơ quá mức, cũng như ích kỷ, vụ lợi, tham lam đều có thể làm con người bất hạnh. Khi hong hóng chờ tình yêu mà nó có thể không bao giờ đến, người ta sẽ bỏ qua, không nhận thấy cuộc sống của bản thân của mình. Không nên đánh đổi cuộc đời bằng sự chờ đợi bất cứ một thứ gì – dù là tình yêu, sự may mắn, sự giàu có. Cần phải sống ở đây, ngay bây giờ, trong lúc này. Phải biết cảm xúc sâu sắc từng giây, từng phút của cuộc đời và nếu biết làm như vậy thì dù cuộc đời có thế nào chăng nữa cũng không thể trôi qua một cách vô ích và bạn sẽ tận hưởng được từng giây, từng phút của nó.

Chương 9 TÔI LÀ NGƯỜI CÓ HẠNH PHÚC VÌ… ĐÃ HỌC ĐƯỢC CÁCH SỐNG

Trước khi nói về mình, tôi muốn kể qua về một người khác. Xin nói sơ qua mà thôi, vì người đó sống vỏn vẹn chỉ có hai mươi ba tuổi. Tuy còn rất trẻ, nhưng cậu ta đã thể hiện rõ những phẩm chất quý báu vốn có, là tính cởi mở, thiện tâm, tốt bụng, rộng lòng, sự sẵn sàng giúp đỡ người khác, tính chan hoà dễ giao tiếp và niềm hưng phấn thường xuyên. Đó là những nét tính cách nổi bật của cậu. Những ai đã có dịp giao tiếp với cậu đều cảm thấy từ cậu toả ra sự nồng nhiệt và tình thân ái hiếm có. Chỉ riêng sự hiện diện của cậu thôi cũng đã đem lại cho người xung quanh niềm hân hoan, tăng thêm tinh thần vui sống, mà điều này là đúng thật, chứ không phải cường điệu đâu, vì chính tôi thấy rõ như vậy trong nhóm sinh viên mà tôi phụ trách. Nhiều chàng trai cùng lứa tuổi với cậu đã nói với tôi rằng họ coi cậu là vị thầy tinh thần của họ. Có lẽ bạn sẽ nghĩ rằng một người có những phẩm chất như thế dễ cho kẻ khác lợi dụng thì làm sao cậu ta có hạnh phúc được? Hoàn toàn không phải như thế! Cậu ta là người hạnh phúc thật sự. Cậu tốt nghiệp trường đại học, rất giỏi về computer, thích đến các quán cà phê-internet, sắp sửa xây dựng gia đình với người yêu. Kirill Kuznetsov học ở Trường Đại học quan hệ quốc tế tại Moskva, nơi mà tôi là một trong số những thầy dạy cậu, vì thế tôi biết rõ chuyện này. Khi cậu vắng mặt tại buổi học, nhóm sinh viên có vẻ buồn tẻ hơn. Sau khi tốt nghiệp xong, cậu được chọn làm việc trong hệ thống Bộ ngoại giao Liên bang Nga và được phái sang Việt Nam công tác ở Đại sứ quán Nga tại Hà Nội. Ở đấy, mọi người yêu mến cậu do tính cởi mở, chân thành, giàu lòng trắc ẩn của cậu và thái độ hăng say trong công việc. Chẳng hạn, cậu đã thiết lập một phòng internet, tích cực giúp việc chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Tổng thống Putin đến Việt Nam, nhờ đó cậu được biểu dương và khen thưởng. Biết tiếng Việt, Kirill đã đến nhiều nơi ở Việt Nam, giao tiếp với dân chúng sở tại dễ dàng và rất yêu mến đất nước đẹp đẽ này. Trước mặt cậu đã mở ra tiền đồ tươi sáng hứa hẹn thăng tiến nhanh trên bước đường sự nghiệp. Thế mà cậu không hề có đầu óc địa vị, bon chen, kèn cựa kẻ khác để mình được vươn lên. Tiếc thay, tất cả những động từ ở đây đều phải dùng ở thì quá khứ, vì cách đây không lâu, cậu đã qua đời trong một tai nạn ô tô khủng khiếp ở Hà Nội trên cầu bắc qua sông Hồng. Cậu chết ngay tức khắc giữa lúc cuộc đời cậu đang trên cao điểm, hơn nữa - lúc cậu đang cảm thấy hạnh phúc nhất và lòng đầy đức tin chân thành ở con đường đạo. Cậu là con một trong gia đình... Vì sao ở đây tôi lại nói về Kirill? Vì đó là một con người rất có hạnh phúc. Điều này thì tôi biết chắc chắn. Cuộc đời của cậu không phải mọi sự đều thuận buồm xuôi gió cả đâu. Đã từng có những khó khăn lớn trong gia đình, những vấn đề nghiêm trọng về sức khoẻ. Nhưng cậu đã vượt qua được để trở thành con người hạnh phúc bất chấp tất cả. Trở thành con người hạnh phúc nhờ những cố gắng của bản thân, nhờ những phẩm chất cá nhân quý báu và nhờ lao động của mình. Mặc dù còn trẻ như vậy mà cậu đã học được cách sống. Có lẽ vì số mệnh ban cho cậu cuộc sống quá ngắn ngũi, nên Kirill đã cố gắng hết sức để kịp hưởng được hạnh phúc chăng? Thế mà có bao nhiêu người sống cả một cuộc đời dài dằng dặc mà cũng không thể tạo nên được hạnh phúc cho mình.

Chỉ sau khi Kirill từ trần, tôi mới hiểu được hết ý câu nói này: “Hưởng ân phước là người mà cái chết giáng xuống cũng không làm hại được”. Đây là lời của Francesco d’Assisi (1182 – 1226), nhà truyền giáo, người sáng lập dòng tu Francesco, tác giả những tác phẩm thơ ca tôn giáo người Ý. Năm 1228 ông đã được phong thánh.


  • * *

Con người mạnh hơn khi anh ta cần cho những người khác.

Bây giờ tôi xin kể về mình. Tại sao tôi lại viết cuốn sách này. Chỉ vì tôi rất muốn giúp các bạn trẻ chút ít nào đó, những người vừa mới bước vào cái thế giới tuyệt trần, kinh khủng, độc ác và kỳ lạ của chúng ta. Tôi rất muốn các bạn trẻ suy nghĩ dù chỉ một chút về tính cách, số phận và tương lai của mình. Tương lai phần lớn tuỳ thuộc vào chính bản thân các bạn. Và nếu những lời của tôi giúp đỡ được dù chỉ cho một người tránh được dù chỉ một lỗi lầm thôi và trở nên hạnh phúc lên một chút, thì tôi coi như vậy là đã hoàn thành nhiệm vụ của tôi rồi. Nhưng làm sao về mặt đạo lý, tôi có quyền được viết cuốn sách này, nếu như khi khuyên người khác, mà bản thân mình lại bị kẹt vào các khó khăn, rắc rối không biết làm sao gỡ được, phải cắn môi và úp mặt vào gối nấc lên vì đau khổ? Tôi viết cuốn sách này bởi vì tôi là một người có hạnh phúc. Tiếc rằng, trước đây không phải bao giờ cũng vậy. Khoảng hai mươi hay có thể là ba mươi năm trước đây, tôi đã từng viết bài thơ sau:

Trái Đất này không phải của tôi, Cả xứ sở này cũng không phải của tôi, Tôi chẳng là ai, chẳng ở đâu và chẳng của ai cả. Cả thời đại, cả hành tinh này đều không phải của tôi. Nhưng cả các vị cũng không là ai và cũng không phải của ai cả…

Tôi mệt ghê gớm, mệt kinh khủng – Khi đã sống quá lâu, đã thấy quá nhiều. Tiếc thật, chẳng có chỗ nghỉ chân trên đường dài của chúng ta, Nơi có thể ngồi tạm khi đi đường quá khổ, Nơi có thể lãng quên, tha thứ, nghỉ ngơi… May thay, con đường kết thúc bằng cái chết!

Lúc đó tôi cảm nhận đúng như vậy, mặc dù so với bây giờ tôi trẻ hơn nhiều. Khi ba mươi ba tuổi tôi phải chịu một cuộc phẫu thuật nghiêm trọng. Cái cảm xúc duy nhất lúc đó của tôi không phải là nỗi sợ hãi, niềm đau khổ mà là mơ ước được chết ngay trên bàn mổ và không còn bao giờ phải trở lại với cuộc đời kinh khủng này. Cùng nằm với tôi trong phòng bệnh còn có các bà cụ rất già, thế mà trong số các bệnh nhân, tôi là người bình phục chậm nhất. Các bác sĩ đều ngạc nhiên không hiểu vì sao, nhưng họ không biết được rằng tôi không muốn sống nữa... Bây giờ thì chắc chắn là tôi không muốn viết bài thơ nào tương tự nữa và nếu bị mổ thì chắc chắn là tôi sẽ hồi phục nhanh hơn nhiều. Vì sao vậy? Vì tôi đã học được cách sống, mà nói cụ thể hơn, thì tôi đã học được cách giao tiếp với mọi người dễ dàng hơn, phân tích tình huống tốt hơn, đặt ra những mục tiêu thực tế và đạt được những mục tiêu ấy. Và điều quan trọng là tôi đã trở thành người vững mạnh hơn, biết cách đương đầu với những đòn đau của số phận mà không hề hốt hoảng hay thất vọng. Tâm hồn của tôi trở nên thanh thản, và tôi hiểu được rằng lẽ sống của tôi không hạn chế chỉ trong khuôn khổ tồn tại của cá nhân. Hạnh phúc phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trước tiên là sức khỏe. Cũng như mọi người, tôi có khá nhiều vấn đề về sức khỏe, nhưng nếu tôi đã bước qua giới hạn sáu mươi tuổi và sống đến già thì có nghĩa là vấn đề sức khoẻ chưa đến nỗi nghiêm trọng lắm. Tiện thể tôi muốn nói thêm, ở Trung Quốc, Nhật Bản, Việt nam và các nước khác theo lịch chu kỳ mười hai con giáp, người ta cho rằng cuộc đời con người gồm năm cái chu kỳ như vậy, thì việc sống hơn sáu mươi tuổi chính là món quà đặc biệt của số phận. Thế thì tôi có thể nói rằng tôi đã nhận được món quà này và đang sống cuộc đời thứ hai. Chẳng lẽ đó không phải là hạnh phúc hay sao? Cuộc sống của tôi cũng khá thuận lợi. Tôi sinh ra ở Moskva. Điều đó rất là quan trọng. Năm 1941, khi cuộc chiến tranh chống phát xít bắt đầu, gia đình phải theo bố tôi là sĩ quan Hồng quân đang phục vụ ở Leningrad, nhưng, dường như nhờ phép lạ, mẹ tôi đã kịp đưa được tôi, đứa bé hai tuổi từ Leningrad về Moskva. Nhờ đó, một lần nữa bà đã trao tặng cuộc sống cho tôi, bởi vì ai cũng đều biết chuyện gì đã xảy ra với dân thành phố Leningrad bị bao vây: trong chín tháng bị phong toả, một triệu rưởi người đã chết đói! Tôi cũng rất may mắn là tuổi trưởng thành của tôi đã diễn ra sau thời kỳ những cuộc đàn áp đẵm máu của Stalin đã giết hại hàng chục triệu người. Tôi được chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử: thời kỳ có tên là “trời trở ấm” sau khi Khrutchev vạch trần những tội ác của Stalin trong giai đoạn gọi là sùng bái cá nhân, thời kỳ cải tổ (perestroika) của Gorbachev, rồi thời kỳ sụp đổ của chế độ cộng sản ở Liên Xô, Đông Âu và nhiều nước khác trên thế giới, thời kỳ xây dựng nền dân chủ non trẻ ở Nga. Vợ chồng chúng tôi đã từng tham gia phong trào dân chủ ở Nga và ba ngày 19, 20 và 21 tháng 8 năm 1991 ở ngay dưới chân Nhà Trắng tại Moskva (hồi đó là trụ sở cơ quan lãnh đạo phong trào dân chủ toàn Nga do Borís Yeltsin đứng đầu – ND) để bảo vệ nền dân chủ mới sinh của nước Nga, chống lại bọn lãnh đạo cộng sản phục thù. Tôi đã được nhìn thấy thế giới: dưới thời xô-viết vì là nhà địa lý tôi đã đi hầu hết các nước cộng hoà của Liên Bang Xô Viết mà hiện nay đã trở thành những nước độc lập. Ngoài ra, tôi đã từng đến Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước châu Âu. Hiện nay, sau khi chế độ cộng sản sụp đổ ở Liên Xô năm 1991, thế giới đã mở ra trước mặt tôi, nơi đó tôi có nhiều người cùng chí hướng, bạn bè, đồng đạo. Và tôi muốn nói thêm là không bao giờ trong đời tôi đi đây đi đó với tư cách một người du lịch. Tất cả đều là những chuyến đi nghiên cứu thời sinh viên, thực tập sinh, những cuộc khảo sát, những chuyến đi công việc hay tu học. Về công việc, tôi đã thành đạt về nghề nghiệp. Đã hơn ba mươi năm tôi dạy tiếng Việt ở Trường Đại học tổng hợp quốc gia ở Moskva và Trường Đại học quan hệ quốc tế thuộc Bộ ngoại giao Liên bang Nga. Tôi là giáo sư có hàng chục tác phẩm đủ loại: những công trình nghiên cứu về kinh tế, địa lý, những sách giáo khoa, nhiều loại từ điển Nga-Việt, nhiều tiểu luận về địa lý học, ngôn ngữ học, tâm lý học. Tôi cũng đã viết nhiều truyện ngắn và dịch truyện văn nghệ. Một số tác phẩm của tôi được in ở Đức, Mỹ, Việt nam. Cuốn sách “Dưới Bóng Từ Bi” của tôi do Nhà xuất bản Văn Nghệ ấn hành ở Hoa Kỳ (1999), được nhiều bạn đọc Việt Nam, kể cả người trong nước, khen ngợi. Cả đời tôi làm việc một cách hứng thú, tôi yêu cái nghề của tôi và rất vui thích khi giảng dạy cho sinh viên. Tôi có quan hệ tốt với đồng nghiệp. Có hàng trăm sinh viên tốt nghiệp, trong đó có người Đức, Tiệp, Mông Cổ, Hungary, Ba Lan, v.v... đã được tôi đào tạo. Như vậy về mặt nghề nghiệp tôi cũng rất hài lòng. Hiện nay, thay thế cho tôi là là cô Sveta Glazunova, một trong những học trò giỏi nhất của tôi, một con người tuyệt vời, cho nên tôi hoàn toàn yên tâm giao phó công việc ở Trường đại học vào đôi tay giỏi giang và đáng tin cậy. Bây giờ tôi là “người tự do” và vẫn như trước đây, tôi viết sách, hoạt động từ thiện, hoạt động xã hội và làm việc tâm linh... Về đời sống riêng của tôi, gần bốn mươi năm lập gia đình, điều đó cũng có ý nghĩa gì chứ! Cuộc sống gia đình của tôi đã trải qua nhiều thứ, tôi đã từng trải qua những năm tháng khổ đau, những năm tháng nước mắt và tuyệt vọng, khi đó tôi tin rằng cuộc đời của tôi thế là chấm dứt và tôi sẽ không bao giờ có hạnh phúc cả. Rốt cuộc thì sao? Lòng kiên trì và nguyên tắc “không làm hại người khác” cuối cùng đã đâm hoa kết trái: đã hàng chục năm nay, hai vợ chồng chúng tôi sống hoàn toàn trong sự đồng cảm, hiểu biết, giúp đỡ lẫn nhau và tin tưởng nhau tuyệt đối. Sống cùng gia đình tôi có cả mẹ tôi. Bà đã tám mươi tám tuổi. Tuy là người tàn tật nặng và di chuyển khó khăn trên chiếc xe lăn, nhưng bà vẫn tràn đầy thiện tâm, tính chịu đựng và sự hiểu biết. Bà vẫn còn minh mẫn, nhận thức rõ thế giới xung quanh, các sự kiện và con người, bà quan tâm đến các vần đề nghệ thuật và chính trị. Hạnh phúc gia đình của tôi còn được tăng thêm bởi tám đứa cháu tuyệt vời, mặc dù các cháu sống khá xa Moskva, còn một số cháu hiện ở nước ngoài. Niềm hạnh phúc lớn nhất đời tôi và chồng tôi là chúng tôi đã có cơ hội được hiến dâng những năm tháng còn lại của đời mình cho công việc tâm linh mà chúng tôi đem hết tâm lực để thực hiện với sự giúp đỡ của một nhóm nhỏ bạn trẻ Việt Nam, nay hầu hết đã về nước. Chúng tôi đã thành lập và duy trì được Hội Phật giáo Thảo Đường (từ năm 1993) với Niệm Phật Đường Thảo Đường (từ năm 1994) bất chấp mọi khó khăn. Nói đến khó khăn thì quả là quá lớn! Sự chống phá rất mạnh của những kẻ vô minh lại có quyền lực lớn đối với người Việt ở Nga. Môi trường sống ở Nga, một nước truyền thống Chính Thống giáo rất mạnh, mà phần đông hàng giáo phẩm cao cấp lại không muốn có bất kỳ một tổ chức nào của tôn giáo khác tồn tại trên thủ đô của nước Nga, trừ Hồi giáo là một giáo hội rất mạnh và rất giàu đã có mặt từ lâu đời. Còn các cơ quan chính quyền Nga thì họ để chúng tôi được tự do, không phá đám, nhưng chúng tôi không thể trông mong ở họ một sự giúp đỡ nào, duy chỉ cái lề thói quan liêu với biết bao quy định hành chính phức tạp của họ cũng gây cho chúng tôi biết bao phiền hà. Trong lúc đó, cộng đồng người Việt ở Nga thì không ổn định, cốt cán của Hội đào tạo được thì luôn luôn di chuyển - về nước hay đi nơi khác, các Phật tử Việt Nam phần lớn sống bất hợp pháp, tâm lý tạm bợ, không coi nước Nga là nơi cư trú lâu dài, cộng thêm nỗi sợ cơ quan đại diện nước họ, nên tinh thần tích cực góp phần xây dựng Hội không mạnh như cộng đồng người Việt ở các nước khác. Còn Phật tử người Nga thì số lượng không đông. Trong điều kiện như thế mà Hội của chúng tôi tồn tại được mười năm nay, sinh hoạt vẫn đều đặn, tuy rằng phải giảm bớt nhiều so với trước, vì sức lực hai chúng tôi ngày một yếu, khó đảm đương khối lượng công việc quá lớn. Chúng tôi rất phấn khởi vì thường được sự chỉ bảo chân thành của quý Thầy mà chúng tôi hết lòng quý mến, là Hoà Thượng Thích Minh Tâm, Thượng Toạ Thích Như Điển, lại nhận được sự ủng hộ đầy nhiệt tình của các đạo hữu chẳng những ở Nga mà ở cả nhiều nước trên thế giới, làm chúng tôi không bao giờ cảm thấy mình đơn độc. Có những tấm lòng từ bi cao cả giúp chúng tôi thêm quyết tâm cống hiến và do đó tăng thêm niềm hạnh phúc của chúng tôi. Tôi xin phép kể vài chuyện. Có lần, nhà tôi sang Hoa Kỳ, gặp một đạo hữu trẻ tuổi, tên là Phạm Phú Giao, cháu ruột nhà văn Phạm Phú Minh, vừa chân ướt chân ráo từ Việt Nam sang, mới kiếm được việc làm không lâu, chưa có nhà riêng, khi biết là ở Nga có Hội Phật giáo Thảo Đường, anh cúng dường một nghìn đô-la cho Phật sự. Nhà tôi ái ngại quá vì biết hoàn cảnh của anh, nhưng anh nhất quyết nói là anh muốn cúng dường Phật sự bên Nga vì thấy công việc chúng tôi làm là cần thiết. Khi nghe nhà tôi báo cáo lại như vậy thì anh chị em Phật tử chúng tôi đều rất cảm động. Và số tiền đó được dùng để trả đủ ba tháng tiền thuê nhà cho Niệm Phật Đường. Trường hợp thứ hai còn đặc biệt hơn nữa. Hồi anh Lê Đình Điểu bị ốm nặng, đã tới giai đoạn cuối cùng của cơn bệnh hiểm nghèo (1999). Trong dịp đó, nhà tôi có mặt ở Little Saigon, may mắn lắm anh mới được chị Dung, vợ anh Điểu, bố trí thì giờ cho đến nhà thăm anh trong lúc chị y tá Mỹ đang chuẩn bị săn sóc cho anh. Trước đó, anh Điểu và nhà tôi đã quen thân nhau từ dạo nhà tôi đến Hoa Kỳ dự lễ kỷ niệm của tờ Thế Kỷ 21. Theo lời nhà tôi kể lại, cuộc gặp gỡ diễn ra chỉ trong vòng năm phút, nhưng vô cùng cảm động. Anh Điểu nằm trên giường bệnh, nắm chặt tay nhà tôi không buông ra, bốn mắt nghẹn ngào nhìn nhau, bỗng anh nức nở, thổn thức... Nhà tôi và hai anh bạn cùng đi là anh Nguyễn Thượng Hiệp và Trần Huy Bích cũng không cầm được nước mắt, khóc theo... Anh Điểu vẫn giữ tay nhà tôi và nói gần như đứt quãng: “Con đường mà anh chị đã chọn là rất đúng... Tôi theo dõi hoạt động tâm linh của anh chị bên Nga... và thấy chỉ có con đường tâm linh mới cứu vãn được...”. Dừng lại một tí rồi anh nói tiếp: “Chỉ có con đường tâm linh thôi... Chúng tôi xin hết sức ủng hộ anh chị...”. Rồi anh quay lại chị Dung đang bước tới ra hiệu báo cho nhà tôi và hai anh bạn đi ra để y tá vào làm việc, anh nói với chị: “Nhà ta phải cố gắng giúp đỡ cho hoạt động tâm linh của anh chị bên Nga nhé...”. Thế rồi đêm trước hôm nhà tôi rời Quận Cam, anh cho con trai là Nhất Lang mang đến một phong bì gửi Hội Phật giáo Thảo Đường trong đó có một nghìn đô-la và lá thư nhỏ nói rõ gia đình anh chị Lê Đình Điểu, cụ bà, các con trai, con gái, con dâu, con rể góp số tiền này để giúp Hội trong công việc Phật sự. Về Nga, nhà tôi báo cáo chuyện đó với anh chị Phật tử Việt và Nga trong một buổi lễ Phật, mọi người đều vô cùng cảm động. Sau đó, chỉ một thời gian rất ngắn anh Điểu từ trần, tôi và nhà tôi hay tin mà không thể cầm được nước mắt. Hội chúng tôi đã làm lễ cầu siêu để mong hương linh anh Lê Đình Điểu chóng được siêu thoát. Tôi kể hai chuyện trên để các bạn hiểu rõ chúng tôi hạnh phúc biết bao khi thấy có nhiều người cùng tư tưởng với chúng tôi, cùng nhận rõ con đường cứu vãn thế giới chỉ có thể bằng cách phát triển cuộc sống tâm linh và nâng cao đạo đức con người. Được những tâm hồn đồng điệu như vậy cổ vũ thì làm sao mà chúng tôi không thấy hạnh phúc của mình tăng lên gấp bội, làm sao không thấy mình được truyền thêm sức, hầu như được chắp thêm cánh? Không những thế, chúng tôi càng thấy trách nhiệm lớn hơn, nặng hơn và mình phải cố gắng nhiều hơn nữa. Bây giờ, tôi xin tiếp tục. Có thể là bạn cho rằng tôi không có những lỗi lầm trong cuộc sống chăng? Tất nhiên là có chứ, vì tôi là con người cũng như bạn và tất cả những người khác. Nhưng điều quan trọng nhất là đừng để cho những lỗi lầm ấy ám ảnh mình mãi. Không được sống trong quá khứ, bằng những hồi tưởng và tiếc nuối: “Ôi, giá mà khi đó tôi…”. Tôi không sống bằng quá khứ mà bằng hiện tại, bởi vì tôi luôn luôn nhớ điều như đã từng nói đến: “giữa quá khứ và tương lai chỉ một nháy mắt mà thôi, nháy mắt đó chính là cuộc đời!”. Ngoài ra, thật may mắn là tôi đã học được cách rút ra những bài học có ích từ những lỗi lầm của mình, điều mà không phải ai cũng làm được. Nếu đến tận bây giờ tôi vẫn còn sống và cảm thấy hạnh phúc thì điều này có nghĩa là những lỗi lầm của tôi không đến nỗi nguy hiểm chết người! Có thể bạn nghĩ rằng tôi không có kẻ thù chăng? Có lắm chứ! Nhà chung cư tôi ở có một tên tội phạm và đã ba mươi năm trời nay hắn làm đủ thứ bậy bạ, thế mà, theo tôi, hắn lại không có kẻ thù. Nhiều người rất ghét hắn, nhưng hắn lại chẳng có kẻ thù. Tại sao vậy? Bởi vì nếu có ai thể hiện lòng thù địch với hắn thì hắn sẽ bày ra đủ trò tồi tệ với người này. Cho nên chẳng ai dại gì gây thù oán với hắn, hơn nữa hắn lại ăn cánh với công an. Còn tôi? Tôi rất xa với công an và giới tội phạm cho nên có thể thù ghét tôi mà không phải sợ hãi, không nguy hiểm gì. Vì thế tôi có không ít kẻ thù. Một số người đồng nghiệp không đủ trình độ chuyên môn thù ghét suốt đời vì ghen tị. Họ xây dựng công danh bằng thẻ đảng, và khác với tôi, một người ngoài đảng, họ ở gần cấp trên và bôi xấu tôi, trong khi nhiều năm trời tôi phải còng lưng làm việc thay cho họ. Có người đến tận bây giờ vẫn căm ghét tôi chỉ vì khác với họ, tôi chưa hề ly dị với chồng và bao giờ cũng có thể trông cậy vào sự giúp đỡ và ủng hộ của nhà tôi. May quá, tôi không có xe hơi, không có biệt thự ở ngoại thành, không có vòng kim cương để đeo, không có những quần áo đắt tiền hay tài khoản bằng đô-la trong ngân hàng, chứ không thì còn có nhiều người căm ghét tôi nữa. Những người khác thù ghét vì mùa đông hai vợ chồng chúng tôi thường cho bồ câu ăn kê và bánh mì thừa nhặt nhạnh ở nhà ăn công cộng, cho sóc và chim vành khuyên ăn hạt hướng dương trong cánh rừng con cạnh nhà. Đến nỗi những kẻ thù giấu mặt này tức giận phá hết những ống bơ đựng thức ăn treo trên cây và lấy chân chà đạp cho bẹp dí. Và chúng tôi luôn luôn phải treo những cái mới. Tôi muốn nói điều gì? Một điều rất hay là tất cả những người này đều có kẻ thù mà tôi là một trong số đó. Họ có quá nhiều kẻ thù do chính họ tạo nên vì lý do vớ vẩn, không đâu và chưa chắc họ đã có bạn tốt. Còn tôi lại không có kẻ thù nào cả. Bí quyết chính là ở chỗ đó. Tất cả bọn họ không phải là kẻ thù của tôi. Tại sao vậy? Bởi vì tính hung dữ, lòng ghen tị và sự giận hờn tràn đầy lòng họ, chứ không phải lòng tôi. Họ thấy khó chịu, chứ không phải tôi. Gặp tôi, mặt họ tối sầm lại, huyết áp tăng lên, tim đập dồn dập. Vì vậy, chính họ làm giảm tuổi thọ cho họ, chứ không phải cho tôi, và tự mình biến cuộc sống của họ thành địa ngục thật sự. Rốt cuộc, đây là cái khổ của họ, chứ không phải của tôi. Với cái nhìn khách quan, tôi thấy rõ trình độ thấp kém thảm hại của họ, thấy họ không biết sống, họ tức giận cả thế giới xung quanh, thấy rõ nỗi cô đơn và đau khổ của họ, và tôi biết là họ hoàn toàn không có hạnh phúc. Tôi có thể hiểu họ, thấy là họ đáng thương, nhưng tình cảm đó của tôi không giúp họ sống dễ dàng hơn được. Tôi không phải là con rối trong tay kẻ khác, nhất là trong tay của những kẻ thù ghét tôi. Cho nên thái độ xấc xược, những tiếng la hét, những lời xỉ vả hay những điều đơm đặt không bao giờ làm tôi mất bình tĩnh. May thay, tình huống chưa bao giờ đi đến chỗ đánh nhau, tuy nhiên nếu bắt buộc, thì tôi cũng có thể tự vệ được. Nhìn họ, tôi chỉ nghĩ: “Cầu Trời hãy tha thứ cho họ, vì họ không hiểu nổi cái điều họ làm”. Cho nên tôi hoàn toàn có thể đồng tình với những lời của nhà đạo diễn phim búp bê nổi tiếng Walt Disney (1901-1966): “Tôi không biết thế nào là trạng thái trầm uất hay buồn rầu. Tôi là người có hạnh phúc”. Về phần mình, tôi có thể nói thêm: tôi không biết thế nào là mất ngủ, rầu rĩ, nhàn rỗi, buồn tẻ, giận dữ, bực tức, sốt ruột, nóng nảy, ghen tị, căm thù. Theo tôi, như thế là hết sức đầy đủ để cảm thấy mình hoàn toàn hạnh phúc. Tiếc thay, rất ít người có thể nói về mình giống như tôi.


  • * *

Cuối cùng, xin nói về lẽ sống. Nếu đóng khung cuộc sống của mình chỉ trong phạm vi gia đình, hầu như chỉ để phục vụ nhu cầu thể xác, như đi cửa hàng mua thức ăn, rồi nấu nướng và ăn uống, sau đó nằm nghỉ, xem tivi, uống thuốc, v.v… thì thật là hết sức buồn chán. Tôi thì không thể nào chấp nhận được cuộc sống như thế. Tôi chẳng có thì giờ để xem tivi. Tôi không mất thì giờ phục vụ cho xe ô tô và cho biệt thự, vì tôi không có những thứ đó. Thế mà, ngoài con người, tôi lại có những thành viên khác trong gia đình là hai con mèo, bốn con chó và một con rùa (trước kia trong nhà tôi còn có nhiều con vật hơn). Dĩ nhiên, có nhiều con vật như vậy không phải để chơi, mà vì lý do đơn giản là để cứu sống chúng. Đã nhiều năm nay, tôi giúp đỡ thú vật và cứu sống khá nhiều “anh em nhỏ của chúng ta”. Chăm sóc chúng – đưa chúng ra ngoài mỗi ngày ba lần, mua và nấu thức ăn, chữa bệnh cho chúng – thật là không dễ đối với tuổi tác của tôi. Nhưng khi làm những việc đó, tôi không phải “chở đá”, vì khi nuôi chúng là tôi “đang xây thành phố” và thậm chí có thể “mở một cửa ngõ sang châu Âu”. Quả là khi tôi nuôi những con vật, tôi đã thắng cái chết và cứu cuộc sống trên Trái Đất này. Tất nhiên, tôi không thể cứu được hết – tôi có phải là bà tiên đâu? Nhưng tôi làm những điều vừa sức tôi và hơn thế một chút. Khi cần, tôi đi tiêm thuốc cho chó và mèo nhà láng giềng, tất nhiên là không lấy tiền. Mùa hè năm 2001, Moskva ra lệnh cấm diễn trò corrida (trò chơi người đấu với bò phổ biến ở Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và các nước châu Mỹ la-tinh, đấu thủ cầm kiếm đâm bò trên đấu trường trước mắt hàng nghìn khán giả - ND). Báo chí viết rằng: “Chiến thắng của thị trưởng Moskva mà không đổ một giọt máu nào”. Tôi tự hào là trong chiến thắng chống sự biểu dương giết chóc dã man này cũng có phần đóng góp tích cực của tôi nữa! Cố nhiên, đám doanh nhân hám lợi tổ chức cuộc đấu hụt rất cay cú đã hăm doạ tôi nhiều lần, vì họ biết tôi là một trong những người đứng ra vận động chống việc du nhập trò chơi dã man này vào Moskva làm băng hoại đạo đức giới trẻ, nhưng họ đã bị thất bại nhờ sự ủng hộ của nhiều người, trong đó có các tổ chức bảo vệ động vật, giáo hội Chính Thống giáo, Hội Phật giáo Thảo Đường và các tôn giáo khác... Thế bạn cứu được mấy cuộc đời rồi? Nếu chưa có cuộc đời nào thì có nghĩa là trong tương lai bạn sẽ làm được! Từ năm 1991 cho đến nay, đã có hàng tấn quần áo, giày dép, sách vở, đồ chơi và các đồ dùng khác, cả cũ lẫn mới đã gom góp lại trong căn hộ hai phòng của chúng tôi. Những thứ đó chúng tôi tự thu nhặt ở các đồng nghiệp, hàng xóm, người quen, kể các doanh nhân người Việt làm ăn ở Moskva. Chúng tôi đã phân phát những thứ đó cho hàng trăm người nghèo khó: các cụ về hưu, các bà mẹ cô đơn, các người tàn tật, những nạn nhân tai hoạ Chernobyl (vụ nổ ở nhà máy điện nguyên tử hồi năm 1986 - ND), các bà mẹ đông con, những người vô gia cư, những bà mẹ ở Chechnya, những nhà dưỡng lão, những phòng cứu tế xã hội của quận, v.v… Tất cả việc này là do tôi tổ chức vào những năm khốn khổ nhất khi có rất nhiều người nghèo khó. Khi tôi còn khỏe, nhiều lần tôi tự đi lấy những thứ đó và vác về nhà trong ba lô của mình, sau đó lại đưa đi phân phát, còn bây giờ tôi chỉ có thể nhận những thứ người ta đem đến, rồi phát cho những người tự đến lấy. Thế mà tôi còn kịp viết sách và điều khiển những buổi huấn luyện về cách ăn nói hùng biện. Cho nên cũng dễ hiểu là tôi chẳng có chút thì giờ nhàn rỗi nào. Tôi chẳng biết còn có thể làm việc căng thẳng như vậy được bao lâu nữa, nhưng hiện tại tôi cứ làm chính cái điều tôi thích, và may thay, kết quả cũng không đến nỗi gì. Tôi cảm thấy mình là người rất hạnh phúc, vì tôi cần cho người khác, vì tâm hồn tôi tràn đầy sự thanh thản và thoả mãn. Khác với nhiều người quen và bạn bè của tôi, trong đó có cả những người mạnh khỏe và giàu sang, tôi chẳng có chuyện gì bế tắc cả. Tôi chỉ có cuộc sống của tôi và đủ thứ việc phải làm mà đến nay tôi đang làm có kết quả. Hè năm 2000, tôi đã thành lập được quỹ từ thiện của Hội Phật giáo Thảo Đường - anh chị em Phật tử người Việt Nam khắp châu Âu tham dự khoá tu học Phật pháp ở Amiens đã gom góp được muời sáu nghìn francs Pháp để giúp đỡ người nghèo ở Nga. Số tiền này trong vòng hai năm qua đã được phân phát cho hàng chục người nghèo mà phần lớn là không quen biết. Đến hè năm 2002, tại khoá tu học Phật pháp ở Anh, anh chị em Phật tử đã góp tặng quỹ từ thiện của chúng tôi khoảng bảy trăm euro nữa để làm việc từ thiện. Tôi tiếp tục sống theo nguyên tắc: “Thà tôi giúp đỡ cho người khác còn hơn bị lâm vào cảnh chính tôi cần sự giúp đỡ của ai đó”. Tất nhiên, tới một lúc nào (có thể là sắp đến rồi) thì tình trạng đó sẽ đến với tôi, nhưng từ nay tới đó tôi vẫn còn phải sống theo nguyên tắc trên! Để kết thúc, tôi muốn dẫn ra những lời của Thánh Francesco d’Assisi (1182 – 1226) mà tôi rất thích và cố gắng noi theo:

“Lạy Chúa, ban cho con sức an ủi, chứ không mong đợi người khác an ủi mình. Lạy Chúa, ban cho con sự thông hiểu, chứ không mong đợi người khác thông hiểu mình. Lạy Chúa, ban cho con lòng yêu thương, chứ không mong đợi người khác yêu thương mình. ………………………………………………………… Bởi vì ai cho thì người ấy được nhận, Ai quên mình thì người ấy được nhận”.

  • * *

NIỀM HẠNH PHÚC HƯ ẢO

Cô gái mảnh dẻ vai đeo túi xắc thể thao đi trên con đường lát đá rợp bóng. Hai bên đường là hàng cây gia cổ thụ đang mùa hoa nở rộ. Không khí ngào ngạt mùi hương làm nàng ngất ngây. Sau hàng cây phía bên phải là biển với bãi cát trắng vắng vẻ, thấp thoáng những cây thông. Bên trái là một xóm biệt thự ngập chìm trong đám cây xanh. Nàng thong thả bước đến đó. Xóm nhà xinh đẹp, vui tươi. Các ngôi biệt thự đều được xây cất với khiếu thẩm mỹ và tấm lòng trân quý. Không một ngôi nào giống ngôi nào. Tất cả đều xinh xắn và vui mắt. Dừng lại trước ngôi nhà đầu tiên, nàng rẽ vào đó. Đẩy cái cửa con, nàng bước vào vườn. Cũng con đường nhỏ lát đá giống như con đường nàng vừa mới đi từ ga đến đây. Hai bên đường nhỏ là những bông bạch cúc to bằng cái bát, những hoa cẩm chướng hồng dịu và những loại hoa khác mà nàng chưa hề biết. Mặt trời chiếu sáng, lũ ong mật bay vo ve quanh những bông hoa. Nàng đến gần ngôi nhà có giàn nho dại quấn quanh tường. Cạnh bậc thềm, nàng thấy một bụi hồng cao quá đầu người trĩu nặng những bông hoa rất to màu đỏ thắm. Cô gái thận trọng vươn cổ, ngửi hoa. Dưới bụi hồng là cái thùng gỗ đựng nước mưa. Con mèo con lông xám nằm ngay trên bậc thềm sưởi nắng. Cửa vào nhà để ngỏ. Đứng đây, nàng nghe rõ tiếng nhạc dịu dàng vang ra. Nàng đi qua hiên vào bếp. Căn bếp rộng rãi, sạch sẽ sáng bóng và đầy ánh nắng. Thoáng nhìn, nàng thấy tường ốp gạch men sứ trắng, bếp gaz và tủ lạnh. Bên trái cửa là một chiếc bàn ăn và ba cái ghế đẩu trắng đặt quanh. Trên bàn là mấy tách cà phê đen còn bốc hơi. Cạnh đó là bánh mì, bơ, phó-mát và mấy quả cà chua chín mọng. Trong bếp không có ai cả. Cô gái ra khỏi bếp, thấy cầu thang dốc đứng dẫn từ hiên lên tầng hai mà lúc đầu nàng không nhìn thấy. Nàng bước lên cầu thang vào một căn phòng nhỏ ấm cúng kê bàn ghế đẹp vẹc-ni bóng láng. Trên bàn có cái máy ghi âm nhỏ xíu, từ đó vang lên nhạc điệu mà lúc nãy nàng vừa nghe. Máy truyền hình đặt ở góc phòng. Tấm thảm bông trải kín sàn phòng, trên thảm có một quả bóng đỏ to tướng. Trong phòng này cũng chẳng có ai cả. Cô gái đi khắp nhà, nhưng cả nhà vắng không. Nàng có cảm giác mình đã lạc vào một tòa lâu đài tuyệt đẹp, kỳ diệu, huyền bí. Nàng muốn cởi chiếc xắc đeo ở vai, nằm xuống thảm cạnh quả bóng đỏ và ở lại đây mãi mãi. Nàng thở dài, bước ra khỏi nhà. Trên cánh cửa con của ngôi nhà thứ hai có treo một tấm biển sắt đã gỉ với dòng chữ: “Cẩn thận, chó dữ!”. Cô gái đẩy cửa đi vào. Nàng chẳng sợ chó. Trong ngôi nhà này có vẻ người ta rất thích hoa thu hải đường. Cả mảnh vườn con trồng rặt loài hoa này. Loại thu hải đường đẹp như thế nàng chưa hề thấy. Lá to bằng hai bàn tay xòe rộng, mịn màng, lắm sắc - xanh, đỏ và đỏ sẫm. Thân cây dày đầy lông tơ như những con sâu róm. Những bông hoa cánh kép to bằng hai nắm tay. Đủ loại màu sắc, trắng, hồng, vàng, đỏ thắm, màu cà phê sữa, màu huyết dụ. Có lẽ đến hàng nghìn bông hoa làm lóa cả mắt. Bỗng nhiên, một con cún tròn như quả bóng, lông hung hung từ đâu đó chạy ra mừng rỡ nhảy bổ vào cô gái. Có hai đứa trẻ: một trai khoảng bốn tuổi và một gái khoảng năm tuổi đang chơi trên con đường nhỏ dẫn vào nhà. Cả hai đứa đều tóc vàng, mắt xanh và rất dễ thương. - Có ai ở nhà không các cháu? – nàng cất tiếng hỏi. - Chẳng có ai cả đâu ạ. Chỉ có cháu với em Sasha mà thôi, - cô bé trả lời chững chạc. Không rõ vì sao bỗng dưng cô bé thẹn thùng nấp sau Sasha. Đứng sau lưng em, cô hỏi: - Cô ơi, cô có phải là nàng tiên cá không? - Chính cô cũng chẳng biết nữa, - nàng mỉm cười trả lời. Câu hỏi hoá ra thật hóc búa. Nếu nói là nàng tiên cá, tức là nói dối cô bé. Nếu nói “không” là làm nó thất vọng và tước mất ảo mộng của nó. Nàng đi tiếp đến ngôi nhà sau, từ giã cậu bé Sasha đang đứng trong vườn và cô bé phân vân, vì nó vẫn hy vọng cô gái phải là nàng tiên cá, và nó không tin lắm là một bà cô lớn như vậy mà chẳng biết mình có phải là nàng tiên cá hay không. Từ sau cánh cửa ngôi nhà thứ ba vang lên tiếng đánh gam. Ai đó đang tập đàn dương cầm. Thế là tốt rồi. Như vậy là nhà có người. Nàng gõ cửa. Tiếng đàn ngừng bặt và một giọng nữ trầm trầm nghiêm nghị bảo cô gái vào nhà. Nàng bước vào một căn phòng hơi tối bày biện bàn ghế cổ kính tối màu và những tấm rèm cũng tối màu rủ xuống lưng chừng cửa sổ. Một bà cụ tóc bạc, mặc đồ đen, bộ mặt khắc khổ, đang ngồi đan áo trong chiếc ghế bành sâu. Một cô bé chừng tám tuổi ngồi bên chiếc dương cầm, tò mò nhìn ra. Cô bé lai da đen có mái tóc quăn tít, đen nháy và bồng lên. - Bà có phòng cho thuê không ạ? – nàng rụt rè hỏi. - Không, chúng tôi không cho thuê phòng đâu, - bà già trả lời và chẳng hiểu vì sao thở dài não nuột. Nàng đến đã ba nhà rồi mà cũng không thuê được. Mặc dù phòng chưa có, nhưng nàng vẫn có linh cảm vui vui về một điều gì đó lạ thường sắp phải xảy ra với nàng. Biển, mặt trời, những cây thông đẹp tuyệt vời. Những ngôi nhà, trẻ con và những bông hoa cũng vậy. Tất cả đều được tắm trong ánh nắng mùa hè, đượm mùi hoa gia ngây ngất, gợi nên cảm giác về một câu chuyện cổ tích thần kỳ nào đó nàng đã được nghe từ tấm bé, nhưng không hiểu vì sao về sau lại quên mất. Nàng sẽ ở lại đây cả một tháng trời suốt kỳ nghỉ phép đầu tiên trong đời. Lòng nàng tràn đầy sung sướng. Sống trong những ngôi nhà nhỏ xinh xắn và có nhiều hoa này chắc chắn phải là những người có hạnh phúc nhất trên Trái Đất này. Họ tự hào, đẹp đẽ, cần cù và cao thượng. Ai mà biết được, có thể nàng sẽ gặp được chàng hoàng tử của lòng mình chính tại nơi đây thì sao... Điều này nếu xảy ra thì chẳng có gì lạ cả, mà trái lại hoàn toàn tự nhiên thôi. Khi ấy cả chàng và nàng sẽ cùng tắm biển buổi sáng, nói chuyện không ngớt với nhau về cuộc đời, cùng nhau mơ mộng, phơi nắng trên bãi cát trắng, tay trong tay đi khắp mọi nơi. Và họ sẽ là những người hạnh phúc nhất giữa những người xung quanh cũng rất hạnh phúc… Ở ngôi nhà tiếp sau, nàng gặp một bà đứng tuổi có đôi mắt hiền hậu. Bà nói là có phòng cho thuê trên gác, hiện còn trống. Bà và con gái sống ở tầng một. Cô gái bước lên căn phòng, đặt túi xắc lên giường và ngồi xuống. Trên chiếc bàn nhỏ được phủ bằng tấm khăn trắng toát có lọ thuỷ tinh cắm những bông hoa tươi đẹp. Trên tường đóng đinh móc những cái mắc áo bằng gỗ để không. Cửa sổ mở rộng có treo tấm màn con sạch tinh, còn bên ngoài những cành nho dại phủ đầy, dường như muốn nhìn vào căn phòng. Trên bệ cửa số đặt chậu cây thiên trúc quỳ với những chùm hoa đỏ thắm. Giường đã cẩn thận trải ga trắng muốt, cái tủ con đầu giường màu trắng giống như trong bệnh viện. Chỉ có thế thôi, không còn đồ đạc gì nữa. Bà chủ nhà đi ra và nàng ở lại một mình. Cô gái ngồi cạnh bàn, thích thú nhìn ra cửa sổ, lắng nghe tiếng vo vo của loài ong mật trong vườn và lặng yên không muốn cử động. Tâm hồn lâng lâng với khoái cảm hạnh phúc và yên bình, nàng thấy hình như có thể ngồi như thế này mãi mãi. Dường như suốt đời nàng đã đi, đi đâu đó, cứ đi mãi và cuối cùng thì đã đến. Và bây giờ chẳng cần phải đi đâu nữa. Bỗng nhiên, nàng nghe giọng nói đanh đá. Cô con gái đang nói với mẹ ở tầng dưới. - Đồ súc sinh già khọm kia! Đến khi nào mụ mới chết đi cho rảnh mắt! Tôi không thể nhìn mụ được nữa. Sao tôi lại khổ đến thế này, tôi đã làm gì mụ cơ chứ? Con gái nói bình thản, không lên giọng. Chắc là cô ả đã nhiều lần nói những lời kinh khủng kia với mẹ và chúng đã trở thành quen tai với cả hai người. Nàng mỉm cười buồn bã. Ảo mộng của nàng đến đây tan vỡ. Quả là nàng đã linh cảm như thế ngay từ đầu cơ mà! Ở đâu cũng có đủ loại người. Già và trẻ, đẹp và xấu, hiền và ác. Những con người trần tục với những đau khổ, lo lắng và buồn phiền của họ. Những người đó tuy mơ ước về hạnh phúc, nhưng không thể xây dựng được nó. Ở đâu họ cũng như thế cả...

Chương 10 NHỮNG NGƯỜI CÓ HẠNH PHÚC

Sống cho mình là cháy âm ỉ

                                       Sống cho gia đình là cháy bùng
  Sống cho người khác là toả sáng trưng 

Albert Schweitzer (1875-1965)

Cách đây không lâu, tôi dạy ở Trường Đại học quan hệ quốc tế tại Moskva. Trong lớp năm thứ ba có sáu sinh viên – năm nam và một nữ. Tình cờ tôi nói về Albert Schweitzer, nhưng hoá ra, không một sinh viên nào trong lớp đã từng nghe đến cái tên này. Lúc đó, tôi thấy rất buồn. Nếu như các bạn trẻ, những nhà ngoại giao tương lai có trình độ và ham hiểu biết mà chưa hề nghe về nhân vật nổi tiếng này thì còn nói gì đến những người khác? Mà Albert Schweitzer quả là con người kỳ diệu, thật sự quên mình, hết lòng vì người và rất đáng khâm phục. Nếu nói về đề tài của chúng ta, thì ông chính là người có hạnh phúc. Tiếc thay, phải thêm “Schweitzer đã từng là”, vì ông đã qua đời rồi. Dù sao tôi cũng muốn giới trẻ hiện nay biết chút ít về ông, cho nên dưới đây tôi xin trích dẫn một vài câu nói của chính Schweitzer và kể vài lời về con người tuyệt vời này. Trước hết, tại sao tôi lại cho ông là người có hạnh phúc? Bởi vì chính ông tự nói ra điều đó! Sau đây là những lời của ông: “Cuộc đời tôi có biết bao nỗi lo lắng, thiếu thốn và đau khổ. Nếu tinh thần không vững thì tôi đã ngã gục rồi. Tôi mang gánh nặng của mệt mỏi và trách nhiệm, gánh nặng đó nằm trên vai tôi đã nhiều năm nay. Bản thân tôi hưởng thụ rất ít trong cuộc đời này, thậm chí nhiều khi không có thì giờ để dành cho vợ và đứa con của tôi. Số phận tôi có hạnh phúc là do tôi đã có cơ hội được phục vụ công việc thiện nguyện, do hoạt động của tôi có kết quả khả quan, do nhận được ở người khác nhiều tình thương yêu và điều tốt lành, do tôi có những người giúp việc đáng tin cậy coi công việc của tôi là của chính họ, và cũng do tôi có đủ sức khoẻ để đảm đương nổi công việc rất khẩn trương”. Vậy Albert Schweitzer là ai? Bạn có thể biết được điều này nếu đọc cuốn sách của Paul Gerbert Fraier “Albert Schweitzer. Cuộc Đời Và Sự Nghiệp” (Moskva, NXB Khoa học, 1984) hoặc tìm tài liệu cần thiết trong Internet. Tôi chỉ có thể nói được rằng đây là một con người tài năng hiếm có trong nhiều lĩnh vực khoa học và nghệ thuật. Nhưng cái chính ông là một Con Người viết hoa! Ông sinh tại thành phố nhỏ Kaizersberg, thuộc miền Thượng Alsace của Đức, trong gia đình nghèo đông con của mục sư Tin Lành. Hồi còn nhỏ, Albert là một cậu bé èo uột đến nỗi cha mẹ ông rất lo lắng cho sinh mệnh của ông. Nhưng bầt chấp sức khoẻ yếu ớt lúc nhỏ và hoạt động đầy hy sinh, nhọc nhằn quá sức trong vòng mấy chục năm trời, ông sống đến chín mươi tuổi. Thế mà ít người sống được đến tuổi thượng thọ này, nhất là nam giới, vì tuổi thọ của họ thường thấp hơn phụ nữ. Tôi nghĩ rằng, sở dĩ được như vậy là vì ông đã không hề tiếc thân mình, công việc hết sức vất vả, nhưng tự nguyện và đầy hứng khởi đã tôi luyện cơ thể ông, giúp ông làm việc căng thẳng thường xuyên, có thể nói là tâm hồn ông rực cháy. Và đây chính là nguyên nhân tuổi thọ hiếm có của ông. Tất nhiên, đạt được tuổi thọ cao đến thế cũng nhờ Schweitzer là người có hạnh phúc. Ông đã sống hết cuộc đời theo ý muốn, nguyện vọng, ước mơ và lý tưởng của ông. Và cái chính là ông sống cho mình ít hơn là cho người khác, những người nghèo khổ nhất, bất hạnh nhất và vô quyền nhất. Về điều đó thì tôi sẽ kể sau. Albert là một cậu bé tính tình kín đáo, rụt rè. Thiên nhiên, loài vật và âm nhạc là những thứ cậu yêu thích nhất đời. Lúc nhỏ, cậu học không giỏi lắm. Năm 1893, cậu vào học ở Trường đại học tổng hợp Strasbourg. Tại đây, cậu theo học một lúc hai khoa: thần học và triết học. Song song với việc học ở trường đại học, cậu còn đi Paris học đại phong cầm (đàn organ) với bậc thầy Vidor, một nghệ sĩ đại phong cầm rất nổi tiếng. Ông thầy hết sức ngạc nhiên vì tài năng âm nhạc phi thường của chàng trai tỉnh lẻ. Paul Gerbert Fraier đã miêu tả thời sinh viên của Schweitzer như sau: “Hồi còn là sinh viên, Schweitzer đã làm được một việc to lớn. Anh đối xử với bản thân rất nghiệt ngã. Để khỏi ngủ gật lúc phải học đêm khuya, anh đã ngâm chân trong chậu nước lạnh. Chỉ nhờ có sức khỏe tốt, anh mới chịu đựng nổi gánh nặng công việc quá tải lớn đến như vậy. Mặc dù thiếu thì giờ, nhưng anh vẫn thường xuyên đến Paris để học đại phong cầm với Vidor…Thật đáng ngạc nhiên là làm sao Schweitzer đạt được kết quả tốt đẹp như thế trong việc học đại phong cầm, khi đồng thời phải làm rất nhiều bài tập về triết học và thần học, thêm nữa lại dành thì giờ nghiên cứu ngoài chương trình một số vấn đề về đời sống của Chúa Jesus. Vidor rất quan tâm đến học trò của mình và không tiếc lời khen ngợi anh ta”. Sau này, Schweitzer viết trong tiểu sử của ông: “Có một lần vào buổi sáng ở Gunsbach, tôi đã tự nhủ rằng trước năm ba mươi tuổi tôi cho phép mình giảng đạo, nghiên cứu khoa học và biểu diễn đại phong cầm, nhưng sau giới hạn đó thì tôi sẽ hiến thân mình cho việc phục vụ trực tiếp con người”. Schweitzer đặt ra cái chương trình này cho cuộc đời mình khi anh mới 21 tuổi, và tất nhiên, anh chưa hình dung được cụ thể mình sẽ làm gì khi đến tuổi ba mươi. Nhưng thật kỳ lạ, điều phát nguyện thầm kín của chàng trai này không hề tắt đi theo năm tháng và sau này ông đã hiến dâng hàng chục năm trời để thực hiện điều phát nguyện ấy. Và chính việc thực hiện được ước mơ của mình đã làm cho ông có hạnh phúc. Schweitzer là một người rất có tài trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trước hết, ông là một nghệ sĩ đại phong cầm nổi tiếng, đã từng biểu diễn ở nhiều nước châu Âu. Trong suốt nhiều năm sau, công chúng rất hâm mộ những buổi biểu diễn đại phong cầm của Schweitzer. Cần phải nói thêm rằng ông còn là một nghệ sĩ dương cầm (đàn piano) tuyệt vời nữa. Ngoài ra, cho đến nay Schweitzer vẫn được coi là người thợ sửa đại phong cầm mẫu mực và nổi tiếng nhất. Ông nghiên cứu các giàn đại phong cầm của nhiều nước châu Âu và rút ra kết luận đáng buồn: hầu hết các giàn nhạc cụ cực kỳ phức tạp này được tạo tác từ xưa đều cần phải đại tu, hơn nữa, một số đã quá cũ không thể dùng được nữa. Hồi đó, ở châu Âu hầu như không có thợ sửa đại phong cầm, nên nhiều nhà thờ buộc phải quyết định phá bỏ những giàn đại phong cầm đã quá cũ. Schweitzer không thể đồng ý với quyết định này và trong công trình khoa học của mình về chế tạo đại phong cầm, ông đã đưa ra những phương án cụ thể và có cơ sở về mặt kỹ thuật để chữa sửa đại phong cầm. Các thợ chuyên môn chế tạo đại phong cầm đã đánh giá rất cao công trình khoa học của ông, và từ đó nó đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của họ. Chính nhờ Schweitzer - và chỉ có mình ông - mà những giàn đại phong cầm ở châu Âu đã được cứu chữa và các nhà chế tạo đại phong cầm Đức trở thành những người thợ giỏi nhất thế giới. Ông không chỉ viết về đề tài này mà còn trực tiếp nghiên cứu tại chỗ những giàn đại phong cầm cũ. Ông nhớ lại: “Tôi đã bỏ ra nhiều thì giờ và công sức cho việc phục chế những giàn đại phong cầm quý nhất. Đã bao đêm tôi ngồi bên các bản thiết kế đại phong cầm để chấp nhận hoặc sửa đổi những chi tiết trên đó. Tôi phải đi lại đây đó rất nhiều để có thể nghiên cứu ngay tại chỗ xem có nên phục chế lại một giàn đại phong cầm cũ nào đó không, hay nên làm cái mới”. Sau khi tốt nghiệp trường đại học tổng hợp, Schweitzer làm trợ tế giúp mục sư của một nhà thờ ở Strasbourg. Ở đó, ông đã nhiều lần hành lễ và giảng đạo. Cũng trong thời gian này, ông đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Ông còn viết nhiều công trình nghiên cứu về thần học. Các công trình của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng châu Âu và được giới thần học rất yêu chuộng. Ngoài ra, ông còn thuyết trình cho công chúng về văn học và triết học Đức - về Schopenhauer, Gerhard, Hauptmann, Zudermann, về tác phẩm “Faust” của Goethe. Có thời gian ông còn dạy ở khoa thần học của Trường đại học tổng hợp Strasbourg, nơi ông đã từng học. Tóm lại, ông là con người rất đa tài, uyên bác và hoạt động xã hội không mệt mỏi. Thậm chí ông còn tranh thủ thời gian viết một tác phẩm về Johann Sebastian Bach, nhà soạn nhạc yêu quý của ông! Việc này kéo dài hai năm. Công trình đó viết bằng tiếng Pháp và xuất bản năm 1905. Đồng thời ông còn thường xuyên làm việc từ thiện, đỡ đầu trẻ mồ côi và người nghèo khổ. Trong những năm tháng này và lúc nào cũng vậy, cuộc sống của Albert Schweitzer rất khẩn trương, nhưng ông vẫn không hề quên mơ ước được trực tiếp phục vụ con người bằng hoạt động thực tiễn. Ông không hề bó hẹp hoạt động của mình, mà cố sức mở rộng ra trong nhiều lĩnh vực, nào là làm việc từ thiện, nào là viết sách, thuyết trình, nào là biểu diễn - chính để phục vụ con người. Đã thế, ông vẫn còn muốn làm một cái gì khác, cụ thể hơn. Có một lần, đọc tập thông báo của Hội truyền giáo, ông thấy lời kêu gọi cho biết rằng đoàn từ thiện Ki-tô giáo ở xứ Congo đang rất cần người. Chính lời kêu gọi đó đã thay đổi hẳn cuộc đời và số phận sau này của Schweitzer. Ông hiểu rằng không còn phải tìm kiếm gì nữa, ông nhất định phải sang châu Phi giúp những người Phi châu nghèo khổ nhất trên Trái Đất này. Thông báo về việc thiếu người truyền giáo ông đọc năm 1904, nhưng mãi đến năm… 1913 ông mới đi châu Phi được. Vậy thì chín năm trời, từ năm 1904 đến năm 1913, ông dùng để làm gì? Suốt thời gian này ông chuẩn bị kỹ lưỡng để làm việc ở châu Phi. Trước tiên, ông tự hỏi: “Đi châu Phi làm gì và có thể làm được việc gì ở đấy?”. Câu trả lời duy nhất của Schweitzer là: “Mình đến đó với tư cách bác sĩ chữa bệnh cho dân Phi châu, những người hoàn toàn không được cứu giúp gì về mặt y tế”. Nhưng chữa bệnh thì không cần đến những nhà thần học, triết gia hay nghệ sĩ đại phong cầm, mà dĩ nhiên là chỉ cần các bác sĩ. Thế mà Schweitzer chẳng hề có liên quan gì đến y học. Điều này có thể làm cụt hứng bất cứ người nào, nhưng với ông thì không. Và ông đã… vào học ở khoa y. Người nào cũng biết y khoa là một ngành khoa học rất khó. Hơn nữa, học y khoa khi đã ba mươi tuổi khó hơn nhiều so với tuổi mười bảy. Đã thế, năm này qua năm khác, ông lại phải đấu tranh chống cái mệt mỏi kinh niên, vừa theo học y khoa lại vừa phải viết sách về thần học, thuyết trình các đề tài khác nhau, biểu diễn đại phong cầm để lấy tiền mua dụng cụ y tế, thuốc men và phương tiện cho bệnh viện tương lai mà ông định xây dựng ở châu Phi. May thay, lúc này nghệ sĩ đại phong cầm Schweitzer đã nổi tiếng toàn thế giới văn minh. Phần đông họ hàng và người quen hết sức phản đối quyết định của Schweitzer đi châu Phi, họ coi việc đó là điên rồ, hay ít nhất là quá nhẹ dạ. Ông phải chịu đựng những lời buộc tội gay gắt, những ngăn cản quyết liệt hay thậm chí cả những lời vu khống. Nhưng điều đó không làm ông nhụt chí. Ông đã tỏ rõ tinh thần vô cùng vững vàng và bảo vệ cái quyền được sống theo ý mình. Cuối cùng, đến năm 1911, ông nhận bằng bác sĩ. Lúc đó ông đã gần ba mươi bảy tuổi. Nhưng ông không thể đi châu Phi ngay được. Vì thiếu tiền nên vẫn chưa mua đủ dụng cụ y tế cần thiết, mà bệnh viện thì cần phải có đủ mọi thứ: để giải phẫu, để đỡ đẻ, để chữa hầu hết các bệnh (mắt, tai, tim mạch, v.v…), kể cả các bệnh nhiệt đới mà bác sĩ Âu châu chưa hề biết. Năm 1912, Albert Schweitzer kết hôn với Helène Breslau, con gái của một giáo sư dạy sử của Trường đại học tổng hợp Strasbourg. Hồi đó, ông đã ba mươi bảy tuổi, còn vợ ba mươi ba tuổi. Bà là giáo viên trường trung học, ngoài ra bà còn dạy nhạc, hướng dẫn nhóm đồng ca trong nhà thờ và chăm sóc trẻ con mồ côi ở Strasbourg. Sau này tuy sức khỏe yếu, nhưng trong hàng chục năm trời bà Helène vẫn là người giúp việc tuyệt vời và người cùng chí hướng với chồng. Chính điều này đã tạo nên cơ sở cho cuộc hôn nhân hạnh phúc của họ. Cuối cùng, đến năm 1913, vợ chồng ông mới lên đường đi châu Phi. Họ chất lên chiếc tàu khách bảy mươi thùng hàng dành cho bệnh viện tương lai của ông. Thực ra, Schweitzer không gom đủ số tiền cần thiết, cho nên một phần trang thiết bị và thuốc men phải mua bằng tiền vay tạm của bạn bè. Về sau, món nợ này là gánh nặng ông phải đeo đẳng mãi trong nhiều năm trời và phải hết sức hạn chế chi tiêu của mình và gia đình để lo kiếm tiền trả nợ dần dần. Chỉ đến sau Thế chiến thứ nhất những khoản nợ cuối cùng của ông mới được thanh toán hết. Sau này, Schweitzer đã miêu tả chuyến đi dài lâu này trong sách: “Giữa Nước Và Rừng Nguyên Sinh (Cảm xúc và quan sát của một bác sĩ trong rừng nguyên sinh tại vùng Châu Phi Xích Đạo)”. Cuốn sách này xuất bản năm 1921, viết bằng một ngôn ngữ tuyệt vời và sinh động. Khi tàu cập bến xứ Gabon, Schweitzer đã phải đóng thuế hải quan một số tiền lớn cho những thùng hàng nhập, bởi vì chính quyền thuộc địa chẳng thèm biết đây là hàng viện trợ nhân đạo dành cho dân bản xứ. Cuối cùng, hai vợ chồng và đồ đạc của họ đã đến được một làng hẻo lánh tên là Lambarene. Tại đây, ông định xây một bệnh viện. Về sau, bệnh viện này đã trở thành biểu tượng của hoạt động nhân đạo cho toàn thế giới. Trong vòng chín năm, kể từ ngày Schweitzer đọc lời kêu gọi trong tập thông báo của Hội truyền giáo, ông là người đầu tiên và duy nhất hưởng ứng lời kêu gọi đó. Xây dựng bệnh viện ở một thành phố Âu châu còn khá phức tạp, huống gì làm việc này ở trong rừng nhiệt đới nguyên sinh, có lẽ là điều không thể làm được. Thế mà hai vợ chồng Schweitzer đã làm được. Bước đầu, họ tu sửa lại chuồng gà làm phòng khám bệnh nhân. Trong làng Phi châu hẻo lánh làm sao có công nhân xây dựng được, vì hồi đó, người Phi châu chỉ thích đi làm cu li ở các doanh nghiệp chế biến gỗ, vì thực dân mua gỗ quý nhiệt đới cung cấp cho châu Âu cho nên họ cần thuê nhiều cu li. Dân bản xứ chẳng hề có ý muốn làm không công hay gần như không công cho “bọn Tây trắng dở hơi”. Dân Phi châu bị đủ thứ bệnh, hơn nữa là những bệnh bỏ mặc lâu ngày không chữa, đó là chưa nói đến tai nạn khi đi săn hoặc đánh cá, cũng như tai nạn tại các doanh nghiệp chế biến gỗ mà chẳng hề có bảo hộ lao động. Hơn nữa, bệnh khó chữa vì ăn uống thiếu thốn, nhiều khi bị đói hay vì người dân thiếu học. Schweitzer đã viết như sau: “Các bệnh tôi thường gặp là sốt rét, phong hủi, bệnh ngủ, kiết lỵ, bệnh ghẻ cóc nhiệt đới và các loại u bướu. Tôi rất ngạc nhiên vì có nhiều trường hợp viêm phổi và bệnh tim. Cũng có nhiều bệnh về thận. Về ngoại khoa thì thường gặp nhất là các bệnh thoát vị và phù voi”. Trong thời gian đầu, dân bản xứ còn ngờ vực công việc chữa bệnh của hai ông bà Schweitzer, vì trong đời họ chưa từng thấy người da trắng mà lại đến một nơi hẻo lánh chỉ để chữa bệnh cho dân da đen. Nhưng, dần dà tin đồn về một bác sĩ da trắng đến chữa bệnh bố thí bay đi khắp các làng mạc xa xôi, nên số bệnh nhân tới chữa ngày càng tăng. Người ta đưa bệnh nhân đến bằng thuyền hay bằng cáng. Cuối cùng, ông cũng tìm được vài công nhân để xây dựng một lán gỗ lợp tôn làm bệnh viện, sau đó, làm thêm mấy lều gỗ thô lợp lá cọ. Trong cái lán gỗ này chẳng có điều kiện tiệt trùng gì cả, nhưng ông vẫn phải làm phẫu thuật, như thế còn tốt hơn là phẫu thuật ngay ngoài trời. Mặc dù phải làm nhiệm vụ bác sĩ rất khẩn trương, nhưng, ngoài việc lãnh đạo bệnh viện, Schweitzer còn trực tiếp tham gia việc xây dựng. Hai ông bà làm việc mà không có một người thông ngôn nào cả. Thế mà đến cuối năm 1913 cũng có thể nói được là ở Lambarene đã có một bệnh viên thật sự. Nhịp độ làm việc rất căng thẳng ở bệnh viện Lambarene thỉnh thoảng cũng có những chuyện kỳ diệu bất ngờ xảy đến. Bạn bè và những người hâm mộ nghệ sĩ đại phong cầm Schweitzer đã tặng ông một món quà vô giá: họ gửi cho ông một giàn đại phong cầm pha dương cầm (đàn organ-piano) thích hợp với khí hậu nhiệt đới, có nghĩa là không sợ nóng và ẩm. Từ đó, mấy chục năm trời liền trong khu rừng nguyên sinh, đêm đêm thỉnh thoảng thánh thót vang lên tiếng đàn kỳ diệu. Những lúc chơi đàn, Schweitzer tận hưởng khoái cảm tuyệt vời. Vợ chồng Schweitzer không chỉ làm việc ban ngày, mà nhiều khi còn phải làm việc ban đêm nữa, vì người ta chở bệnh nhân đến ban đêm và cần phải giải phẫu ngay. Điều đáng buồn là trong người Schweitzer đã nảy ra một khối u gây đau đớn, và chính ông cũng cẩn được giải phẫu ở một làng khác khá xa. Hai vợ chồng phải mất mấy tuần lễ để đến chữa trị ở đó. May thay, cuộc phẫu thuật thành công và Schweitzer bình phục nhanh chóng. Vừa hồi sức thì ông lại phải lao vào việc ở bệnh viện Lambarene. Năm 1917, khi cuộc Thế chiến thứ nhất (1914 – 1918) đang lúc ác liệt nhất, chính quyền thực dân Pháp ra lệnh cho tất cả các công dân của nước Đức thù địch, trong đó có cả vợ chồng Schweitzer phải rời khỏi Lambarene ngay lập tức, và họ bị áp tải về châu Âu để đưa vào trại tập trung giam những người Đức. Trong trại trung chuyển ở Bordeaux, nơi tù nhân các dân tộc và quốc tịch khác nhau (Đức, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ, A Rập, v.v…) phải sống trong điều kiện kinh khủng, Schweitzer đã bị lây bệnh kiết lị. Sau đó, tù nhân được chuyển đến Garezon, ở trong một toà nhà không được sưởi ấm trước đây là tu viện. Tại đây, Schweitzer tuỳ sức mình đã chữa bệnh cho nhiều người, đến lúc chỉ huy trại kiên quyết cấm ông không được làm việc này. Thế mà khi đó trong trại lại có nhiều bệnh nhân bị kiệt sức, bị cảm lạnh, bị bệnh kinh niên hay bị chứng trầm uất. Số bệnh nhân ngày càng tăng, nên cuối cùng ban chỉ huy trại buộc phải cho phép ông chữa bệnh trở lại và còn cho ông một căn phòng để khám bệnh. Ở nơi giam cầm, Schweitzer vẫn tiếp tục viết sách hay ngồi vào bàn để luyện chơi đại phong cầm tưởng tượng. Trong khi đó, sức khỏe của ông và vợ ông bị giảm sút rất nhanh và cuối cùng họ không còn sức đi dạo trong giờ được phép. Vào giữa năm 1918, một số tù nhân, trong đó có vợ chồng Schweitzer, được đánh đổi với tù binh Pháp. Hai người đã hoàn toàn kiệt sức nay vui mừng trở lại thành phố Strasbourg thân yêu. Ông Albert lại tiếp tục giảng đạo chính tại nhà thờ mà ông đã từng hành lễ trước khi đi châu Phi. Về sau, Alsace-Lorraine được nhập vào nước Pháp, và như vậy, ông trở thành công dân Pháp. Khi đó, ông chuẩn bị cho in một công trình nghiên cứu mới: lần đầu tiên trong lịch sử âm nhạc, tất cả các khúc thánh ca của Bach đã được sưu tập đầy đủ. Song song với những việc nói trên, Schweitzer còn làm bác sĩ trong một bệnh viện của thành phố. Năm 1919, tại Strasbourg này, lúc Schweitzer 44 tuổi, vợ ông đã sinh hạ con gái mạnh khỏe đặt tên là Rena. Sức khỏe của Schweitzer vẫn còn rất kém, ông hay bị mệt và bị mắc chứng u sầu. Nhưng dần dần ông đã trở lại với hoạt động tích cực: biểu diễn đại phong cầm, thuyết trình cho công chúng cũng như cho sinh viên nhiều nước Âu châu. Chỉ đến lúc này ông mới trả hết số nợ hồi trước chiến tranh. Dần dần ông bắt đầu thuyết trình về một đề tài hoàn toàn mới: về châu Phi và bệnh viện ở Lambarene. Hoá ra, chính đề tài này đã lôi cuốn thính giả nhiều nhất. Ông đã thuyết trình về đề tài này ở nhiều nước Âu châu và kết quả trông thấy là thính giả bắt đầu quyên tiền cho bệnh viện. Sau đó, ngoài một loạt các công trình về triết học và thần học, Schweitzer còn viết một cuốn sách nữa về châu Phi. Sách được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới và đã đem lại cho ông nguồn thu nhập đáng kể. Tuy thế, vợ chồng Schweitzer vẫn sống rất khắc khổ như trước để dành tiền chuẩn bị cho chuyến đi lần nữa đến châu Phi. Khốn thay, sức khỏe bà Helène giảm sút hẳn, nên lần này bà không đi cùng chồng được… Schweitzer buộc phải đi châu Phi một mình. Đầu năm 1924, ông chia tay với vợ con và lên đường trở lại Lambarene. Bệnh viện gần như bị phá huỷ hoàn toàn. Lần này, Schweitzer đi cùng người bạn trẻ là Noel Ghillespi, anh đã rời châu Âu để theo ông. Hai người bắt tay xây dựng lại bệnh viện. Tiếng đồn động trời: “Bác sĩ da trắng đã quay trở lại!” được truyền tai khắp vùng rừng nhiệt đới. Và người ta lại kéo nhau đến cái bệnh viện chưa xây xong. Cũng như trước đây, bệnh nhân ngày càng đông… Nhưng lần này Schweitzer không phải chỉ có một mình, chẳng bao lâu một số bác sĩ và y tá từ nhiều nước Âu châu cũng đã đến. Không một ai lĩnh lương, nhưng mọi người làm việc cả ngày liền đêm để hoàn thành bất cứ công việc nào, chứ không phải chỉ việc chữa bệnh. Thế mà họ cảm thấy hạnh phúc tột cùng. Đến mùa thu năm 1925, bệnh viện đã được khôi phục xong.

Nhưng lúc này lại nảy ra những khó khăn mới, trước hết là cần phải mở rộng bệnh viện, vì cùng một lúc bệnh viện phải chứa đến 200 bệnh nhân, chưa kể bà con của họ là những người đã chở họ đến từ mọi miền xa xôi nhất của đất nước. Tôi chưa kể hết những trở ngại trong việc xây dựng, như một vài vật liệu phải đặt mua từ châu Âu vì ở châu Phi không có. Dù thế đến năm 1927, một bệnh viện mới, tuy chưa xây xong hẳn, cũng đã bắt đầu tiếp nhận bệnh nhân mới. Và thật trớ trêu, chính quyền thuộc địa coi bệnh viện là một doanh nghiệp tư nhân của Schweitzer và bắt ông phải đóng đủ loại thuế. Đến lúc này, bệnh viện ở Lambarene thật sự đã trở nên nổi tiếng thế giới. Làm việc tại đây có đủ bác sĩ, y tá và các nhân viên khác, cho nên Schweitzer có thể yên tâm để công việc lại cho đồng nghiệp của mình, và khi năm mươi hai tuổi, ông đã quay trở lại châu Âu một thời gian. Lúc này ông cần phải bồi dưỡng sức khoẻ, thăm gia đình và hoàn thành một số công trình khoa học, vì khi ở Lambarene ông hoàn toàn không có thì giờ rảnh rỗi để làm việc nghiên cứu. Ngoài ra, ông còn dành sức lực cho các buổi thuyết trình về những đề tài khác nhau, cũng như biểu diễn đại phong cầm. Hồi đó, ông viết như sau: “Thế giới của chúng ta không chỉ là một chuỗi các sự kiện mà còn là cuộc sống. Đối với cuộc sống của thế giới, trong phạm vi mà tôi có thể nhận biết được, thì thái độ của tôi không phải chỉ là của người chịu đựng, mà còn là của con người hành động. Và hoạt động của tôi, tràn đầy ý nghĩa và lấy thế giới của chúng ta làm đối tượng, chính là phục vụ cuộc sống chứ không phải là cái gì khác. Con người và thế giới gắn bó nhau. Khả năng duy nhất đem lại ý nghĩa cho cuộc sống riêng là khi con người biết nâng cái quan niệm tự nhiên của mình đối với thế giới lên cấp độ tâm linh…

Với tư cách là một sinh thể tích cực, con người thiết lập mối liên hệ tinh thần với thế giới xung quanh bằng cách không sống cho bản thân mình, mà nhận thức được mối liên hệ gần gũi của mình với toàn bộ cuộc sống xung quanh. Bằng cách cảm nhận số phận cuộc sống xung quanh như số phận của chính mình: người đó luôn luôn tận lực giúp đỡ cuộc sống và coi sự giúp đó và cứu trợ cuộc sống là hạnh phúc lớn nhất mà người đó có thể đạt được”. Lúc đầu, Schweitzer nghĩ rằng ông có thể nhanh chóng trở lại châu Phi, nhưng vì tiếng tăm ông vang rộng toàn thế giới, nên khắp nơi dồn dập gửi giấy mời ông đến thuyết trình và biểu diễn nhạc. Nhờ đó, tiền quyên góp cho bệnh viện cũng tăng lên đáng kể. Bây giờ bệnh viện đã có đủ mọi thứ cần thiết – cả phòng phẫu thuật đúng tiêu chuẩn, hiệu thuốc lẫn lương thực không chỉ dành cho bệnh nhân, mà cả cho thân thích của họ nữa từ các vùng nông thôn xa xôi đến. Cuối năm 1929, Schweitzer mới trở lại Lambarene được. Đi cùng ông còn có vợ ông, một nữ bác sĩ trẻ và một nữ xét nghiệm viên. Lần này có đến một trăm hai mươi tám thùng hàng dành cho bệnh viện được chất lên tàu! Nhưng ở châu Phi, sức khỏe bà Helena lại xấu đi, và mùa xuân năm 1930, bà rất buồn buộc lòng phải quay trở về châu Âu. Mùa xuân năm 1934, Schweitzer trở lại châu Âu để đọc một loạt thuyết trình về triết học, văn hoá, nghệ thuật và suy nghĩ về những công trình khoa học mới. Đóng góp vĩ đại nhất của ông vào lịch sử văn hoá thế giới là công trình được viết hồi đó nhan đề là: “Thế Giới Quan Của Các Nhà Tư Tưởng Ấn Độ. Thần Bí Và Luân Lý”, trong đó ông phân tích một cách sâu sắc học thuyết của Ưu-ba-ni-sa-đà (Upanisad), Bà-la-môn giáo (Brahmanisme) và Phật giáo. Javaharlal Neru, nhà hoạt động chính trị Ấn Độ nổi tiếng thế giới, đặc biệt chú ý theo dõi hoạt động của Schweitzer. Nhà văn Pháp Romain Rolland cũng là bạn thân của ông. Thật buồn cười là Goebbels, tay sai của Hitler, cũng đã mời Schweitzer đến Berlin để đọc một loạt thuyết trình ở Đức với tư cách là vị khách quý của Đế chế thứ ba (Drittes Reich). Tất nhiên, ông đã từ chối.

Mùa đông năm 1935, Schweitzer lại lên đường đến bệnh viện của mình, nhưng lần này ông ở châu Phi không được lâu. Ông trở về châu Âu ngay trong mùa hè năm ấy (ở châu Âu, mấy tháng đầu năm vẫn coi là mùa đông – ND).Và một chuỗi không dứt những buổi biểu diễn, những thuyết trình, những bản báo cáo… Danh tiếng và vinh quang của Schweitzer đã bay đến tận châu Mỹ. Và cứ hoạt động như vậy cho đến mủa xuân năm 1937, lúc Schweitzer quay trở lại Lambarene.

Tình hình thế giới trong những năm này không yên lắm. Tại nước Đức, chủ nghĩa phát xít phát triển mạnh, cuộc thế chiến mới đã gần kề. Hai năm sau, Schweitzer lại làm việc căng thẳng như trước ở Lambarene. Lúc này, ở đây đã hình thành một khu bệnh viện hoạt động có thể nói là lý tưởng – hàng ngày tiếp đến 300 bệnh nhân! Nhiều khi nhân viên bệnh viện không chỉ nuôi bệnh nhân mà còn phát quần áo mới cho những người ăn mặc rách rưới nữa. Trong khuôn viên bệnh viện còn có cả vườn rau và cây ăn quả, nhờ đó có thể tăng chất lượng khẩu phần ăn. Tình hình quốc tế ngày một căng thẳng khiến Schweitzer rất lo lắng. Vì ông không quên được những gian truân ông đã từng trải qua trong Thế chiến thứ nhất. Đầu năm 1939, Schweitzer trở về châu Âu lòng đầy lo âu về tương lai của thế giới. Ông chỉ ở lại đây trong một tháng và giành toàn bộ thì giờ cho việc mua thuốc men và thiết bị. Những điều chứng kiến ở châu Âu cho ông thấy trước những sự kiện bi thảm không thể tránh khỏi mà các nước châu Phi xa xôi cũng không thể đứng ngoài được. Như vậy thì những năm tới, nhân viên bệnh viện chỉ có thể trông cậy vào sức mình và thậm chí là phải đấu tranh cho sự sống còn của bệnh viện. Ngay trong năm 1939, bệnh viện ở Lambarene đã phải chịu hậu quả nặng nề của chiến sự: đợt hàng thuốc men cuối cùng mà Schweitzer mua trong chuyến về thăm châu Âu ngắn ngủi vừa qua đã không đến nơi được vì con tàu chở hàng đã bị tàu ngầm Đức đánh chìm. Lúc bấy giờ bệnh viện đã phải tiết kiệm thuốc men, bông băng đến mức tối đa, từ chối không nhận những người bệnh nhẹ, mà đưa họ về nhà chăm sóc hay chuyển sang chữa ngoại trú. Hồi đó, bệnh viện không thể chữa một lúc hơn 40 bệnh nhân, vì không còn hy vọng nào nhận được tiếp tế những thứ cần thiết để chữa bệnh. Lúc này một ý nghĩ dày vò tâm trí mọi người trong bệnh viện: “Tại sao lại có thể như vậy, khi ở Lambarene này chúng ta chịu thiếu thốn mọi thứ và bất chấp mọi khó khăn để ngày đêm chữa bệnh cho con người, phải đấu tranh giành lấy từng mạng sống, thì trên thế giới lại có hàng nghìn người bị chết vì bom đạn hay bị tàn phế. Vậy thì công việc của chúng ta có nghĩa lý gì hay không?”. Chiến tranh lan đến tận Lambarene, nơi diễn ra những trận chiến giữa quân đội của tướng De Gaulle và chính phủ Vichy vào mùa thu năm 1940. Bệnh viện thiếu thuốc trầm trọng. Trong hoàn cảnh đó hoạt động y tế hầu như chẳng còn ý nghĩa gì. Chẳng có viện trợ từ đâu cả. Nhân viên bệnh viện bị kiệt sức vì mệt mỏi và thất vọng do tình hình quốc tế gây nên, nhất là sau khi biết tin về vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki (tháng 8 năm 1945 – ND). Hồi đó, trong: “Nhật Ký Châu Phi Từ Năm 1938 Đến Năm 1945”, Schweitzer viết: “Năm 1944, chúng tôi hiểu rõ là chúng tôi mệt đến mức nào rồi. Cái mệt này là do ở quá lâu trong điều kiện khí hậu nóng bức và ẩm ướt của châu Phi, vì khối lượng công việc to lớn thường xuyên đè nặng. Cần phải dốc hết sức để hoàn thành công việc hàng ngày mà sự nghiệp chúng tôi đòi hỏi. Chỉ có mong sao đừng bị ốm để có thể tiếp tục làm việc - đó là điều chúng tôi thường xuyên lo lắng. Lúc này, chúng tôi không một ai có thể bỏ việc được, và tất cả chúng tôi đều hiểu điều đó. Chẳng có ai thay thế cho bất kỳ một người nào trong số chúng tôi… Thế mà chúng tôi không chịu đầu hàng”. Và bệnh viện vẫn đứng vững, vẫn làm việc trong suốt thời gian chiến tranh và các nhân viên bệnh viện đều trụ được đến cuối cuộc chiến. Sau chiến tranh, châu Âu nằm trong đống tro tàn, người dân đang đói, tất cả mọi thứ đều khan hiếm, giá cả tăng lên hàng chục, hàng trăm lần. Trong điều kiện như vậy, bệnh viện ở Lambarene làm sao có thể hy vọng vào bất cứ viện trợ nào được? Nhưng dần dần cuộc sống trên thế giới bình thường trở lại, và những khoản tiền, những đợt thuốc men nhỏ bé đầu tiên đã đến được bệnh viện. Một số bác sĩ đã về châu Âu nhờ có những người tình nguyện đến thay thế. Chỉ có Schweitzer vẫn ở lại Lambarene, nhưng ông đòi bà Helène phải về châu Âu năm 1946. Dần dần cuộc sống cũng trở lại bình thường cả ở bệnh viện, và cũng như trước kia, bệnh viện lại đủ sức hàng ngày tiếp nhận đến 200 bệnh nhân. Mãi đến năm 1948, sau mười năm liền sống ở châu Phi, Schweitzer mới quay trở lại châu Âu được. Ông đã xa vợ hai năm và xa con hơn mười năm. Còn các đứa cháu ngoại thì ông chưa hề gặp bao giờ. Lần này gia đình Schweitzer viếng thăm Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Báo chí làm rùm beng lên và thêu dệt đủ chuyện kỳ quặc về bệnh viện và về bản thân Schweitzer. Khắp nơi, công chúng nồng nhiệt hưởng ứng những buổi thuyết trình của Schweitzer với sự hoan hô ầm ĩ khiến lúc đầu ông lấy làm lạ. Sau chuyến đi ngắn quanh nước Mỹ, vợ chồng Schweitzer mua mọi thứ cần thiết ở châu Âu và năm 1949, họ quay trở lại Lambarene. Tại đây, vào năm 1950, Schweitzer đã kỷ niệm ngày sinh nhật thứ 75 của mình. Điện mừng từ khắp nơi trên thế giới tới tấp bay đến, nhiều trường đại học tổng hợp trên thế giới đã phong tặng ông những tước hiệu danh dự. Nhà bác học Albert Einstein đã gọi ông là “con người vĩ đại nhất trong thời đại chúng ta”. Nhưng Schweitser vẫn không ngừng lo lắng. Mặc dù chiến tranh đã kết thúc và bệnh viện hoạt động tốt, nhưng những năm này lại đáng buồn, vì thế giới đã bước vào thời kỳ “Chiến tranh lạnh” lâu dài và tăm tối. Schweitzer hiểu rất rõ điều ấy. Khi mơ ước cả đời ông đã được thực hiện, nhưng ông hoàn toàn không mãn nguyện. Trần gian thật là quái đản và kinh khủng! Thế mà ông thì bất lực! Năm 1953, Albert Schweitzer được trao tặng Giải Nobel Hoà bình cho năm 1952. Nhưng chẳng phải vì thế mà cõi trần này trở nên tốt hơn… Nhờ có khoản tiền thưởng của Giải Nobel 220 nghìn mark Đức mà một cái làng 150 chỗ dành cho người bị bệnh phong hủi đã được xây dựng cách Lambarene không xa. Còn bệnh viện có thể tiếp nhận một ngày đến 500 bệnh nhân. Nhờ phương tiện thông tin đại chúng mà trên thế giới đã hình thành cả một làn sóng sùng kính Schweitzer. Làn sóng đó tuyệt nhiên không làm cho “người anh hùng” của nó xúc động, mà thậm chí chỉ làm ông khó chịu. Có hơn sáu trăm cuốn sách viết về ông, còn bản thân Schweitzer cũng cho xuất bản vài tác phẩm tự truyện. Sách ông được in và tái bản với số lượng kỷ lục. Năm 1955, Albert Einstein viết về Schweitzer như sau: “Vì lý do nào đó mà người này đã được cả thế giới ngưỡng mộ - không phải chỉ nhờ những chiến công của ông, tuy bản thân chúng đã đáng khâm phục rồi, mà chính là do toàn bộ nhân cách của ông, nó vượt ra khỏi mọi quan niệm thông thường”. Nhưng chẳng bao lâu tình hình đã thay đổi tận gốc. Điều này xảy ra năm 1957, khi Schweitzer công bố “Lời kêu gọi loài người”, trong đó ông yêu cầu chính phủ các nước có vũ khí hạt nhân phải chấm dứt việc thử loại vũ khí này. Thế là một chiến dịch bôi nhọ ông được tung ra trên báo chí, bắt đầu ở Mỹ, rồi châu Âu cũng hùa theo. Cả đứa con tinh thần yêu quý nhất của Schweitzer là bệnh viện cũng bị bôi nhọ. Nguyên nhân là sau hàng chục năm hoạt động, bệnh viện đã đến lúc cần phải đại tu toàn bộ và cải tổ về mặt kỹ thuật. Đã đến lúc cần phải xây dựng trạm phát điện riêng, khoan giếng nước uống và nước phục vụ kỹ thuật, v.v... Báo chí viết rằng bệnh viện không còn thích hợp với tiêu chuẩn vệ sinh hiện đại và đã quá cũ kỹ rồi. Hồi đó, Schweitzer đã ngoài tám mươi tuổi và ông không còn đủ sức để làm những việc này, dù đó là những việc thật sự cần thiết. Năm 1958, Schweitzer lại công bố ba bản hiệu triệu chống thảm hoạ chiến tranh hạt nhân. Ông hiểu rõ: ngoài hai cường quốc hạt nhân là Mỹ và Liên Xô, chẳng bao lâu nữa trên thế giới sẽ còn xuất hiện nhiều nước khác có vũ khí hạt nhân. Và đúng như vậy, sau đó còn có cả Anh, Pháp, rồi Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, v.v... Nguy cơ chiến tranh hạt nhân lại càng ngày càng lớn. Hồi đó, Javaharlal Neru nhiệt liệt ủng hộ hiệu triệu của Schweitzer. Còn báo chí thì càng công kích ông rất ác liệt, thậm chí đôi khi đến mức lăng mạ. …Cả khi Schweitzer đã 85 tuổi, ông vẫn liên tục lãnh đạo bệnh viện như trước. Ông vẫn luôn luôn làm việc quá sức và sống rất khắc khổ. Bệnh viện ngày càng mở rộng. Năm 1960, thuộc địa của Pháp là Châu Phi Xích Đạo đã tan vỡ thành mấy nước riêng biệt, Lambarene nằm trong nước Cộng Hoà Gabon. Chính phủ Gabon đã công nhận kỳ công của Schweitzer bằng cách công bố trước toàn dân thông điệp cảm ơn và cho phát hành tem bưu chính đầu tiên của quốc gia mới có chân dung ông. Năm 1965, tại bệnh viện Lambarene, Schweitzer kỷ niệm ngày sinh lần thứ 90… Ít lâu sau, ông qua đời. Albert Schweitzer được an táng trên mảnh đất Phi châu, ở Lambarene, dưới bóng cây chà là, bên cạnh bà vợ. Ông thường hay nhắc đi nhắc lại rằng cái chính đối với ông không phải là bệnh viện ở Lambarene, mà là thái độ của ông đối với cuộc sống, đối với loài người mà ông sống và làm việc hoà mình trong đó…

SỨ GIẢ HOÀ BÌNH

“Tôi chưa hề biết một người nào sung túc hơn tôi, dù ai cũng cho là tôi nghèo nhất trong số những người nghèo. Trái lại, tôi biết là tôi giàu nhất trong số những người giàu. Tôi có sức khỏe tốt, có hạnh phúc và yên bình nội tâm – đó là những thứ không thể nào mua được, cho dù bạn có là tỷ phú chăng nữa”. “Mọi việc tôi đều làm một cách thoải mái và hân hoan”. “Tôi là người hành hương đi đây đi đó. Tôi sẽ là người hành hương cho đến khi loài người chưa nhận thức được con đường dẫn tới hoà bình, tôi sẽ đi, đi mãi chừng nào người ta chưa cho tôi chỗ nghỉ chân, tôi sẽ nhịn đói chừng nào người ta chưa cho tôi ăn”.

Sứ Giả Hoà Bình.

Người ta đặt tên bà là “Sứ giả Hoà Bình” (Peace Pilgrim), vì chính bà cho là cái tên cũng như các sự kiện trong tiểu sử của bà đều hoàn toàn không quan trọng. Có thể tìm hiểu vài chi tiết về tiểu sử của bà qua cuốn sách “Người Hành Hương Yêu Hoà Bình. Cuộc đời và hoạt động qua những bằng chứng của chính bà”, do “Nhóm bạn Nga của người hành hương yêu hoà bình” xuất bản ở Moskva năm 1993. Phần lớn cuốn sách gồm có những lời tự thuật về cuộc đời của Sứ Giả. Nhưng tự truyện của bà thì rất độc đáo. Trong đó hầu như không liệt kê những sự kiện cuộc đời. Nhưng lại miêu tả các cấp độ phát triển tâm linh, nói về lẽ sống, hạnh phúc, cái chết và tôn giáo, đưa ra những đoạn trích trong thư từ trao đổi với hàng chục nghìn người ngưỡng mộ tinh thần hy sinh quên mình của bà, đồng thời kể lại những cuộc gặp gỡ và nói chuyện với dân chúng trong thời gian du phương kéo dài suốt 28 năm ròng! Từ năm 1953 đến năm 1981, Sứ Giả Hoà Bình đi bộ lẫn đi xe vượt qua hàng vạn cây số, cuối cùng vì nhiều quá nên bà không tính nữa. Nhiều lần bà đi khắp nước Mỹ, đã tới Alaska, đảo Hawai và đến thăm người da đỏ. Bà gặp hàng chục, hàng trăm nghìn người. Nói chuyện với họ trong các trường phổ thông, trường đại học, nhà thờ, toà soạn báo chí, các đài truyền hình, trên đường phố, tại nhà dân và thậm chí cả trong đồn cảnh sát, vì có khi bà bị đưa về đồn do “tội sống lang thang”. Tại sao bà không ngồi ở nhà như mọi người khác? Bà lập kỳ công như thế vì cái gì? Điều này thật khó hiểu không chỉ đối với người có cấp độ nhận thức bình thường, mà có khi cả đối với người có cấp độ nhận thức cao hơn. Dưới đây, tôi sẽ cố giải thích để các bạn rõ. Người ta còn gọi bà là “Người vô gia cư thánh thiện”. Bà sinh ra ở nước Mỹ, nhưng sinh năm nào thì không ai biết, vì bà không bao giờ nghĩ đến tuổi của mình. Bà từ trần vào năm 1981, theo tôi khi ấy bà khoảng 81 tuổi. Cho đến cuối đời, bà vẫn đi đây đi đó, dưới trời mưa, quần áo ướt nhèm rồi lại khô đi trên người bà, đi dưới trời tuyết… thế mà không bao giờ bị ốm cả. Trời đã ban cho bà cái chết dễ dàng – bà chết ngay lập tức trong tai nạn ô tô lúc hai xe đâm nhau trực diện, khi bà đi nói chuyện với dân chúng… Bà nói về tuổi tác của mình như sau: “Tôi rất vui, vì không còn phải nghĩ đến tuổi tác của mình nữa. Trước đây, khi tôi tính ngày sinh và nghĩ về tuổi già của mình, thì đúng là tôi già đi thật. Tuổi tác là một trạng thái tinh thần, thế mà tôi coi mình là một sinh thể vĩnh hằng. Các bạn bao nhiêu tuổi là tuỳ các bạn và hãy sống thích hợp với tuổi tác của mình”. Thế mà lúc đầu, cuộc sống của bà diễn ra cũng như của phần đông những người bình thường khác. Tuổi ấu thơ sung sướng của bà trôi qua hồi đầu thế kỷ 20 trong ngôi nhà bố mẹ ở một trang trại nhỏ, bên cạnh có dòng sông con và cánh rừng mà tại đây cô bé đã học được cách yêu và hiểu thiên nhiên. Cũng như mọi đứa trẻ khác, cô học ở trường phổ thông, và khi học những lớp cuối, có thời kỳ cô đã làm nhân viên bán hàng trong một cửa tiệm nhỏ ở địa phương. Thế nhưng, ngay ở tuổi thanh niên, bà đã biểu hiện cá tính của mình, không thích hùa theo đám đông, hay nói cách khác, không thích chạy theo “bầy đàn”. Bà biết giữ vững tính cách riêng, bảo vệ tính độc lập và coi trọng tự do cá nhân của mình. Chuyện xảy ra như thế nào? Quanh bà toàn là những người bạn bình thường, đám thanh niên tỉnh lẻ của nước Mỹ đầu thế kỷ 20. Tất cả bọn họ đều uống rượu, hút thuốc và ép cô bạn “phải sống như họ”. Nhưng cô không chịu làm thế, cho nên lúc đầu đám bạn đã coi thường cô. Cô đã thuyết phục chúng bạn rằng cô có quyền lựa chọn, có quyền làm theo ý mình, chứ không phải theo ý người khác. Và cuối cùng, bạn bè phải chịu chấp nhận hành động của cô và sau đó… còn kính trọng cô hơn trước. Bà sống với thế giới nội tâm của mình và đây là thế giới của một người tự chủ, độc lập, vị tha, ít nghĩ đến mình. Vì vậy bà là một trong những người có hạnh phúc nhất trên Trái Đất này. Đến nay vẫn còn giữ được băng ghi âm về một cuộc phỏng vấn Sứ Giả Hoà Bình: - Hình như bà là người phụ nữ rất hạnh phúc. - Đúng, tôi là một người rất hạnh phúc. Biết Chúa Trời thì làm sao lại không vui mừng được? Chắc cũng nên nói đến tín ngưỡng của bà. Bà không bao giờ đến nhà thờ để cầu nguyện, mặc dù nhiều khi bà đã từng phát biểu ở nhà thờ trước thính giả. Bà không bao giờ cầu kinh, nhưng có thể nói quả quyết rằng toàn bộ cuộc đời của bà là sự cầu nguyện liên tục cho hoà bình và hạnh phúc của nhân loại. Sau đây là lời nói của bà về vấn đề này: “Tôi không và chưa bao giờ từng theo một tín ngưỡng nào hết. Tôi là một người rất sùng đạo, nhưng đã chọn con đường nội tâm trong cuộc đời tín ngưỡng của mình… Không thể nói rằng đó là con đường duy nhất. Nhưng, chắc chắn đây là một con đường tuyệt vời. Mỗi người đều được tự do lựa chọn và tu theo con đường của mình”. Bà nói thêm: “Cầu nguyện thường xuyên không phải là một nghi lễ, trong đó chẳng có lời. Đây là trạng thái thường xuyên nằm trong người, trong sự đồng nhất với Chúa”. Có thể nói thêm một điều rất quan trọng: Sứ Giả Hoà Bình không chỉ đánh giá cao cuộc sống con người, mà còn quý trọng bất kỳ cuộc sống nào khác trên Trái Đất. Điều ấy giải thích tại sao bà ăn chay trường, hoàn toàn không ăn cá thịt và không bao giờ mang trên mình cái chết của kẻ khác – quần áo lông thú hay da thú. Thái độ của Sứ Giả Hoà Bình về cái chết cũng rất sáng suốt. Bà nói: “Cái chết là sự giải phóng tuyệt vời để chuyển sang cuộc sống tự do hơn. Cái áo bằng đất sét chật chội, tức là cơ thể của chúng ta được rũ bỏ… Nếu nhìn sâu hơn nữa vào cuộc đời thì ắt hẳn chúng ta phải buồn khi sinh ra và phải vui mừng khi được chết. Nếu biết rằng cuộc đời trên Trái Đất này thật ngắn ngủi so với cái tổng thể bất tử thì chúng ta sẽ bớt lo lắng về cuộc sống trên Trái Đất…”. Có một lần, lúc hành hương bà suýt chết cóng trong bão tuyết. Sau này bà kể lại: “Chuyện này xảy ra vào năm đầu tiên khi tôi bắt đầu hành hương đi đây đi đó và tôi cho rằng đây là lúc có những cảm xúc tuyệt vời nhất trong đời mình… Khi toàn thân lạnh cóng, tôi không còn cảm thấy đau đớn nữa, thì bắt đầu thấy những ảo giác (hallucinations), hay nói cách khác thấy những bào ảnh, ảo hình. Dường như tôi không chỉ nhìn thấy cuộc sống thể xác bị bao trùm trong bóng đen, trong giá lạnh với những mảng tuyết quay cuồng, mà còn cảm thấy cuộc sống phi thể xác đang gần kề đầy hơi ấm và ánh sáng. Cuộc sống đó thật kỳ diệu. Lúc đầu, xuất hiện những màu sắc quen thuộc, nhưng sau đó chúng biến thành những kết hợp màu sắc chưa từng thấy. Cả âm thanh cũng như vậy: những giai điệu quen thuộc biến thành những giai điệu chưa từng nghe. Rồi tôi thấy những bóng hình. Chúng ở đâu đấy rất xa. Một cái bóng nhanh chóng tiến lại gần tôi. Lúc cái bóng đó đã đến gần, tôi nhận ra đấy là ai. Cái bóng đó trông trẻ hơn lúc người ấy lâm chung. Tôi tin rằng vào đầu thời điểm đổi thay gọi là cái chết, bà con thân thuộc gần gũi nhất đến đón mời chúng ta. Tôi đã từng có dịp săn sóc những người bạn hấp hối, và tôi nhớ rõ họ nói chuyện với những người thân yêu của họ đứng ở ngưỡng cửa của hai thế giới cứ như là họ cùng ở trong một căn phòng. …Tôi cho rằng tôi rất may mắn từng trải qua thời kỳ đầu của sự đổi thay gọi là cái chết… Bây giờ tôi có thể vui vẻ chờ đợi sự đổi thay gọi là cái chết đó, coi như một cuộc phiêu lưu vĩ đại cuối cùng trên đường đời của tôi”. Quan niệm này của Sứ Giả Hoà Bình về cái chết rất giống với quan niệm của những người khác có cấp độ nhận thức vũ trụ. Chẳng hạn, Albert Einstein đã từng nói về vấn đề đó như sau: “Tôi đã hoà mình vào cuộc sống của Vũ Trụ đến nỗi không coi cái chết của mình có tầm quan trọng gì đáng kể lắm”. Tôi xin trích dẫn thêm vài lời nữa của Sứ Giả Hoà Bình: “…Tất nhiên, sự đổi thay gọi là cái chết là một quá trình. Trước hết, ngoài phía thể xác, bạn bắt đầu cảm nhận phía phi thể xác của cuộc sống. Sau đó, bạn bắt đầu nhận ra những người thân yêu của mình về phía phi thể xác khi họ đến gần và bạn thấy rằng có thể tiếp xúc được với cả hai phía. Điều này chính bản thân tôi đã trải qua. Rồi “sợi dây chuyền bạc” bị đứt và liên hệ với mọi người ở phía này của cuộc sống cũng bị đứt theo (theo quan niệm của nhiều tôn giáo, con người liên hệ với các thế giới trong Vũ Trụ bởi một sợi dây chuyền bạc vô hình, đến khi chết thì dây chuyền đó bị đứt – ND), tuy bạn vẫn còn thấy và nghe được họ. Như vậy là bạn đã tới “chỗ gặp gỡ chung” với hương hồn những người thân yêu để đạt được sự đoàn tụ kỳ diệu, cuối cùng sẽ tiến lên cấp độ mà ở đó bạn phải học và hiến dâng, nếu đã đủ trình độ hiến dâng. Cuộc sống phi thể xác nằm ngay ở đây, trong “chiều khác” (theo quan niệm của các tôn giáo và thiên văn học hiện đại, Vũ Trụ có nhiều chiều – ND). Cả hai thế giới xoắn quyện lẫn nhau. Chúng ta nhận thức thế giới của chúng ta, còn họ thông thường thì nhận thức được cả hai thế giới. Có thể có một số mối liên quan, chẳng hạn như chúng ta có thể cầu nguyện cho họ và họ cầu nguyện cho chúng ta”. Tiện thể tôi muốn nói thêm, hầu như tất cả các tôn giáo của tất cả các dân tộc trên thế giới đều nói đến sự tồn tại của “thế giới bên kia”, nghĩa là một thế giới vô hình, song song tồn tại mà con người không cảm nhận được. Cách đây không lâu, các nhà vật lý và các nhà thiên văn đã khám phá ra một điều gây chấn động: họ tính khối lượng của Vũ Trụ và đi đến kết luận rằng khối lượng của phần nhìn thấy được bằng mắt hay qua kính hiển vi, như các vì sao, hành tinh, tiểu hành tinh, sao chổi, v.v... chỉ chiếm có 5% tổng khối lượng đã tính được. Còn 95% khối lượng nằm trong những vật thể vũ trụ mặc dù có tồn tại, nhưng không nhìn thấy được bằng mắt thường và các dụng cụ đo tối tân nhạy cảm nhất hiện có. Chính những khám phá mới nhất của vật lý học và thiên văn học hiện đại đã khẳng định điều mà trí tuệ dân gian truyền tụng từ hàng nghìn năm nay. Ở Nga, hiện nay scó một số tác giả cũng đã viết về điều này. Vladimir Azhazha, nhà nghiên cứu đĩa bay nổi tiếng ở Nga, trong cuốn sách dày của ông nhan đề “Một Cuộc Sống Khác” (Moskva, NXB Golos, 1998), đã đưa ra nhiều bằng chứng ở các nước khác nhau nói về những cuộc gặp gỡ của con người với đĩa bay, với “những người ngoài hành tinh”, về những vụ bắt cóc người và những cuộc tiếp xúc của người với “những người ngoài hành tinh”, đôi khi là với những sinh thể khổng lồ bằng khí nhẹ có khả năng xuyên qua tường, bất ngờ xuất hiện và biến mất như khói sương, v.v… Các bạn sẽ nói: có gì mới ở đây đâu, vì điều đó đã có nhiều người nói và viết trong vòng mấy chục năm qua rồi. Đúng, nhưng Azhazha đã rút ra kết luận khác thường. Tất cả những điều kỳ lạ này không phải do trí tưởng tượng mà ra, không phải là những cuộc gặp gỡ với người ngoài hành tinh, mà là sự tiếp xúc với các thế giới khác song song tồn tại, hiện hữu ở chính nơi đây, ngay trên hành tinh của chúng ta, nhưng các giác quan của chúng ta thường không cảm thấy được. Khả năng các giác quan của chúng ta rất hạn chế cũng chứng minh điều đó: thị giác chúng ta kém hơn chim, thính giác kém hơn cá heo, khứu giác kém hơn chó, chúng ta không cảm thấy được từ trường của Trái Đất như loài chim di trú theo mùa (còn gọi là loài hậu điểu – ND) khi bay qua hàng nghìn cây số để đến nơi trú ẩn. Chúng ta không cảm thấy nhiễm xạ, thậm chí không cảm thấy cả không khí mà chúng ta đang thở. Vì như bạn đã biết, mãi đến thời Trung cổ, bầu khí quyển mới được các nhà khoa học khám phá ra. Có lẽ là, nếu những thế giới tồn tại song song này muốn cho con người thấy được thì vào các thời đại khác nhau mang những hình dạng vừa tầm tiếp thụ để con người có thể hiểu hay thấy được. Ngày xưa là hình dạng quỷ sứ, thiên thần hay các bóng ma, còn bây giờ là những “đĩa bay”, những “hình người” mặc áo giáp phi công vũ trụ. Riêng tôi chưa hề thấy cả đĩa bay lẫn “hình người” ngoài hành tinh, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng không tồn tại! Tôi cũng chưa từng thấy cả Nam Cực, cả Napoléon, cả nạn hồng thuỷ lẫn Thế chiến thứ nhất, hay thậm chí chưa hề thấy cả bà cụ cố mấy đời của tôi, thế nhưng tôi không hề phủ nhận sự tồn tại của những người này hay vật này, dù trong hiện tại hay trong quá khứ xa xôi.

  • * *

“Khi tôi thấy yên bình trong nội tâm là tôi đã chết, chết thật đối với bản thân mình. Từ lúc đó, tôi từ bỏ hết tất cả những gì trước đây là tôi. Tôi thấy không cần phải bám víu vào quá khứ của mình nữa. Nó đã chết và không nên phục hồi lại nó. Đừng có hỏi về tôi, mà hãy hỏi về thông điệp của tôi. Không nhất thiết phải nhớ người đưa thông điệp, mà điều quan trọng là phải nhớ nội dung thông điệp”. Sứ Giả Hoà Bình

Thế thì Sứ Giả Hoà Bình đi đâu và đi để làm gì vào năm 1953, khi không còn trẻ nữa, mà phải vĩnh biệt ngôi nhà, bạn bè và những người thân của mình. Muốn hiểu điều này, cần phải nhớ lại những năm xa xôi từ 1953 đến 1981 của thế kỷ trước. Dĩ nhiên, cả hồi đó, đại đa số dân chúng đều sống cuộc đời bình thường: cũng như mọi người, họ đều đau khổ, thỉnh thoảng vui sướng đôi chút, cũng như mọi người, họ đều phải làm lụng đầu tắt mặt tối để kiếm miếng ăn, sinh ra và chết đi, nhường chỗ cho các thế hệ tiếp sau cũng tầm thường và nhẫn nhục như các thế hệ trước. Rất nhiều người trên Trái Đất này từ thế hệ này sang thế hệ khác cho đến tận ngày nay vẫn mù chữ, chưa bao giờ đọc báo, nghe đài, không biết được chuyện gì xảy ra bên ngoài giới hạn cái làng hay thành phố đang ở. Họ suy nghĩ chỉ bằng phạm trù “cái tôi”, nhiều nhất là “gia đình tôi” hay “dòng họ (bộ lạc) tôi”.

Nhưng trên Trái Đất, thời nào cũng có những người đã đạt tới cấp độ nhận thức cao hơn. Trong những năm đó, họ đã hiểu rằng thế giới với cuộc chạy đua vũ trang và đối đầu hạt nhân của hai hệ thống chính trị - tư bản và cộng sản – đang trượt dài tới thảm hoạ tự huỷ diệt. Than ôi, nguy cơ chiến tranh hạt nhân hồi đó là một thực tế, một thực tế hết sức gần gũi. Trong những năm đó, số lượng vũ khí hạt nhân chế tạo ra đã quá đủ để huỷ diệt Trái Đất này đến hàng trăm lần!

Thế giới không phải một lần đã đứng trước ngưỡng cửa chiến tranh hạt nhân! Chúng ta hãy nhớ lại cuộc khủng hoảng vùng biển Caribbe năm 1962, suýt nữa thì bùng nổ cuộc chiến tranh hạt nhân giữa Mỹ và Liên Xô. Sau này, Nikita Khrutshev, cựu Bí thư thứ nhất Đảng cộng sản Liên Xô, đã viết trong hồi ký của ông: “Nếu sau cuộc tấn công (của đối phương - ND), chỉ còn lại một phần tư hay dù chỉ là một phần mười số tên lửa của chúng ta, thậm chí chỉ còn một hay hai tên lửa, chúng ta cũng có thể bắn vào New York và chắc chắn ở New York sẽ còn sót lại rất ít… Chúng ta chưa kịp đưa hết trang bị tới đây, nhưng cũng đã lắp đủ số tên lửa để tiêu diệt New York, Chicago và những thành phố kỹ nghệ đồ sộ khác, chứ đừng nói gì đến cái làng nhỏ, như Washington. Chắc chắn là chưa bao giờ người Mỹ phải chạm trán với nguy cơ diệt vong hiện thực như lúc này”. Cần nhắc lại rằng, đây là nói về những tên lửa hạt nhân xô-viết đặt trên lãnh thổ nước Cuba cộng sản, và qua đoạn trích trên đây, thấy rõ Khrutshev đã quên khuấy rằng chính Liên Xô cũng có cái nguy cơ bị huỷ diệt như vậy! Thế mà một người phụ nữ Mỹ bình thường, còn trẻ, hồi đó vẫn còn được gọi bằng tên và họ của bà, tuy chưa bao giờ mài đũng quần ở trường đại học, nhưng đã bắt đầu suy tư về những điều đang xảy ra trên thế giới này. Bà đã hiểu rằng thế giới đang giãy chết, thế giới đã biến thành cái nhà điên và đang nằm trên vực thẳm tự huỷ diệt. Những trò chơi chính trị của bọn chóp bu vô liêm sỉ trong các nước phát triển đã tạo ra nguy cơ thế giới tự huỷ diệt, tạo ra nguy cơ hàng tỷ người thường dân vô tội và hoàn toàn không nghi ngờ gì hết phải chết khủng khiếp trong ngọn lửa chiến tranh hạt nhân. Thật ra, từ nghìn xưa đã vậy, bọn cầm quyền bao giờ cũng bắt thường dân làm bia đỡ đạn, chứ không phải là con cái của chúng. Nhưng trong những thế kỷ trước “chỉ có” hàng nghìn người hay nhiều lắm là hàng vạn người chết, thậm chí cùng lắm là hàng triệu người chết. Chứ ngày nay con số đó sẽ lên tới hàng tỷ! Sứ Giả Hoà Bình - hồi đó chưa hề nghĩ rằng cái tên ấy của bà sẽ được ghi vào lịch sử thế giới - cảm thấy vô cùng sợ hãi. Thật ra, cũng có nhiều người sợ hãi, nhưng ai cũng nghĩ rằng mình là con người nhỏ bé, là hạng tép riu thì không thể làm được gì cả. Còn Sứ Giả Hoà Bình thì không cho là như vậy. Bà quyết tâm cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp ngăn chặn chiến tranh, cố hết sức mở mắt cho mọi người bằng cách thuyết phục họ là mọi sự trên thế giới này đều tuỳ thuộc vào chính họ, vào mỗi người trong chúng ta. Chúng ta là hàng tỷ người và mỗi người đều muốn sống, chứ không phải muốn chết trong ngọn lửa của thảm hoạ hạt nhân do chính bàn tay con người gây ra. Bà hiểu rằng sức mạnh to lớn nhất trên Trái Đất là nhận thức và tư duy của con người. Cái tư duy đó có thể phục vụ cho cuộc sống và sáng tạo hoặc cho cái chết và huỷ diệt. Bà quyết tâm đánh thức ý chí của con người giành hoà bình, giành cuộc sống, liên kết mọi ý chí riêng lẻ hợp thành một dòng thác thống nhất hùng mạnh nhằm chống lại ý chí của một dúm chính khách phiêu lưu muốn đưa thế giới đến cái chết và huỷ diệt. Nếu nói bằng ngôn ngữ hiện đại thì bà định tạo nên (các bạn có thể tưởng tượng được không?) một xã hội công dân từ hàng triệu người Mỹ bình thường - những trại chủ, những bà nội trợ, viên chức, sinh viên, công nhân và những người thất nghiệp. Bà quyết tâm nâng tầm nhận thức của họ từ cấp độ “Tôi và gia đình tôi” lên đến cấp độ “Nhà nước và thế giới”. Bà định làm một cuộc cách mạng tinh thần. Đó là nguyên nhân tại sao bà đi đến với mọi người - để nói chuyện với họ và thức tỉnh nhận thức ở họ. Bà đã từ bỏ ngôi nhà, vĩnh biệt cuộc đời trước đây của bà và đi tới mọi người với hai bàn tay không. Trên người bà chỉ có đôi giày, bộ quần áo thể thao màu xanh nước biển và cái áo gilê có nhiều túi, trong đó bà để bàn chải đánh răng, lược và thư từ của những người không quen biết. Phía trước và phía sau chiếc áo gilê có in những chữ to “PEACE PILGRIM”. Có thể có ai đó sẽ nói rằng bà điên chăng? Cố nhiên, nói thế thì dễ nhất. Thế nhưng… quả là bà đã làm được điều bà mong muốn cơ mà! Bà là một những phụ nữ nghèo khổ và già cả, nhưng đã thức tỉnh được cả một đất nước. Hơn nữa, không phải là một nước bé tý tẹo nào không nhìn thấy rõ trên bản đồ, mà chính là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ! Cho nên sẽ thông minh hơn, nếu bạn cố gắng hiểu được kỳ công của bà là ở đâu, làm sao bà có thể thực hiện được điều bà mong muốn, hơn là ngạo mạn tuyên bố bà bị điên. Nhân thể, tôi xin trích dẫn một câu nói ngắn trong di sản tinh thần của Sứ Giả Hoà Bình: “Nhiều người theo đạo Ki-tô, nhưng ít người sống theo đạo Ki-tô. Còn nếu bạn sống theo đạo Ki-tô thì nhiều người lại có thể cho bạn là điên điên tàng tàng”. Tại sao và bằng cách nào bà đã thay đổi được nhận thức của cả một đất nước? Thứ nhất, bằng lao động to lớn, không mệt mỏi, không nghỉ ngơi, liên tục kéo dài suốt hai mươi tám năm trời. Dĩ nhiên, khối lượng lao động đó không thể không đem lại kết quả. Thứ hai, là do nhân cách hiếm có của Sứ Giả Hoà Bình. Bản thân bà là kết hợp độc đáo của nhiều phẩm chất: cực kỳ say mê, thật sự nhiệt huyết, rất chân thành, sẵn sàng giúp đỡ mọi người không chỉ trên lời nói mà còn bằng việc làm thục tế, nội tâm hoàn toàn trong sáng và vô tư. Thêm vào đó, bà có tài hùng biện và tranh luận lỗi lạc. Thế mà bà chưa bao giờ học nghệ thuật hùng biện, nghệ thuật luận chiến, tâm lý giao tiếp cũng như triết học. Bất cứ câu hỏi nào, thậm chí bất ngờ hay ngu ngốc nhất của thính giả cũng đều không làm bà bối rối. Những băng ghi âm và bản ghi tốc ký các bài phát biểu của bà đều chứng minh điều đó. Thứ ba, bà rất may mắn được sống trong một xứ sở là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, biết tôn trọng nhân quyền, tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do phát biểu ý kiến của người dân. Hơn nữa, bà không phải sống vào thời nào trước đây, mà sống ở thế kỷ 20 có đủ loại phương tiện thông tin đại chúng như radio, tivi, sách báo... Chính nhờ các phương tiện này mà giọng nói và những tư tưởng chống chiến tranh của bà càng vang rộng, vang xa trên toàn nước Mỹ và thậm chí trên thế giới. Trong thế kỷ 20, Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã trải qua những biến cố có tính chất cách mạng. Chúng ta có thể nhớ đến Henry Ford, người đã đặt cả nước Mỹ lên xe hơi. Nhờ có ông mà chiếc ô tô trước đây là thứ đồ vật xa xỉ đắt tiền, nay là vật dụng cần thiết ai cũng có thể mua được. Người Mỹ trở thành dân tộc di động nhất thế giới. Một người Mỹ khác, sau Thế chiến thứ hai, đã mở đầu ngành sản xuất dây chuyền các biệt thự gia đình dành cho tầng lớp dân nghèo nhất. Ông đã xây dựng khắp nước Mỹ những khu phố biệt thự. Người ta chế giễu và cho ông là điên. Thế mà ông đã làm thay đổi bộ mặt của cả nước. Biệt thự bán chạy như tôm tươi. Những người nghèo nhất cũng mua được bằng tiền vay tín dụng và trở nên chủ nhà đàng hoàng. Nước Mỹ giàu lên trông thấy. Tiếp đến, xuất hiện Bill Gates với những chương trình computer của mình. Ban đầu, ông đã thay đổi nước Mỹ, làm đất nước giàu hơn (như chúng ta đã biết, thông tin là một trong những tài sản chính của loài người), còn sau đó, đã thay đổi toàn bộ thế giới. Nhưng tất cả các vị này đều là những chủ nhà máy lớn hay những doanh gia tên tuổi. Họ có hàng triệu, thậm chí hàng tỷ đô-la, họ nắm trong tay các doanh nghiệp, các giấy chứng nhận phát minh, hàng chục vạn công nhân và các tập thể khoa học. Về hạng người này, đã có chuyện tiếu lâm sau đây: Một phóng viên hỏi một ông chủ nhà máy: - Thưa Ngài Smith, xin Ngài cho biết làm thế nào trong vòng một năm nay Ngài thu được hai tỷ đô-la tiền lãi? - Điều đó thật dễ! Ban đầu tôi đã đầu tư vào sản xuất một tỷ đô-la… Còn Sứ Giả Hoà Bình chỉ có một mình, hoàn toàn một mình, trong tay không có một thứ tài sản nào, một nhà máy hay công nhân nào cả. Nhưng bà đã làm một cuộc cách mạnh khó nhất – không phải là cách mạng vật chất, mà là cuộc cách mạng tinh thần. Bà đã thay đổi được nhận thức của cả một quốc gia và thông qua nhận thức, bà đã thức tỉnh cả quốc gia đứng lên tích cực đấu tranh chống chiến tranh. Thực ra bà đã làm thay đổi đáng kể toàn bộ chính sách đối ngoại của một cường quốc là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Tôi xin kể thêm một chuyện có tính chất giáo huấn trong cuộc đời đi đây đi đó của bà. Chuyện này cũng gần giống những câu đố tâm lý ở cuối sách bạn đang đọc. Tôi cho rằng không một người nào có thể giải quyết một cách xuất sắc bằng Sứ Giả Hoà Bình, khi bà đưa ra lời khuyên cho một phụ nữ bốn mươi tuổi, cô đơn và bất hạnh ở một thị trấn Mỹ đến xin ý kiến của bà. Người phụ nữ này đã mất nhiều năm mà vẫn không giải quyết được vấn đề riêng hóc búa của mình. Số là bà này ghét cay ghét đắng công việc của bà đến nỗi thỉnh thoảng bị chứng trầm uất và phải điều trị ở bác sĩ tâm thần. Nhưng bà không thể bỏ việc, vì chẳng có ai nuôi bà cả. Bà coi mình là người vô dụng, vô duyên lại vô tài. Sứ Giả Hoà Bình hỏi người phụ nữ thích nhất cái gì trong đời. Bà kia trả lời: thích chơi đàn dương cầm (không chuyên nghiệp), thích bơi lội và… chơi hoa. Ghê chưa, các bạn nhỉ? Làm thế nào mà ba cái sở thích tầm thường nhất này lại có thể thay đổi cuộc sống con người và làm cho người đó hạnh phúc được cơ chứ? Nhưng Sứ Giả Hoà Bình bằng sức mạnh tư duy và tình yêu đối với con người đã tìm ra cách giải quyết thật thần kỳ: lúc đầu bà thu xếp cho người phụ nữ bất hạnh vào làm ở hiệu bán hoa, và bà này rất thích công việc mới. Chứng trầm uất biến mất. Sau đó, theo lời khuyên của Sứ Giả Hoà Bình, bà này đã đi bơi và nhờ đó sức khỏe khá lên. Ngoài ra, bà này còn biểu diễn dương cầm ở nhà dưỡng lão, lập một nhóm đồng ca. Bà đã trở thành hữu ích cho mọi người và tìm thấy lẽ sống trong việc giúp đỡ người khác. Kết quả thế nào? Người phụ nữ này thay đổi hẳn: cảm thấy mình thật sự yêu đời, thích thể thao, giàu nghị lực và có vẻ ngoài duyên dáng. Chưa đầy một năm sau bà lấy chồng. Có nhiều chuyện như thế trong cuộc đời của Sứ Giả Hoà Bình. Ở đâu bà cũng cố giúp người khác để họ được hạnh phúc hơn. Sứ Giả Hoà Bình đã thay đổi tư duy của cư dân cả một nước và trở nên nổi tiếng. Nhưng bà không hề thay đổi nếp sống của mình. Bà vẫn luôn luôn giản dị, tốt bụng, không mệt mỏi, yên bình và hạnh phúc. Báo chí viết về bà, đài truyền hình tường thuật những cuộc gặp gỡ với bà, người ta nhận ra bà trên đường phố. Hàng năm bà nhận được hàng nghìn bức thư gửi từ khắp mọi miền đất nước và cẩn thận trả lời từng bức một. Khắp nơi người ta mời bà đến nói chuyện. Hàng chục vạn người đương thời nghe giọng nói của bà, còn nếu tính cả truyền hình nữa thì đến hàng chục triệu người. Nhờ có bà mà những con người nhỏ bé không còn cảm thấy mình nhỏ bé nữa, mà nhận rõ mình là công dân của đất nước và đòi chính quyền phải chấm dứt chạy đua vũ trang, phải tạo điều kiện cho họ được hưởng cuộc sống hoà bình và chết bằng cái chết của mình chứ không phải chết trong ngọn lửa chiến tranh hạt nhân. Trở thành dường như một chất xúc tác, bà đánh thức tinh thần công dân ở hàng triệu người bình thường của nước Mỹ, và nhờ đó, đã làm thay đổi chính sách nhà nước của Mỹ theo hướng tốt hơn. Và điều này làm nên bởi một người phụ nữ già cả, mà hiện nay không còn ai biết tên nữa. Tiếc thay, ở đất nước Nga hồi đó và cho đến ngày nay hầu như không ai nghe gì đến tên tuổi của Sứ Giả Hoà Bình. Hồi đó cũng như ngày nay, người Nga đã và đang có những nhân vật để sùng bái và những thần tượng khác hẳn. Gần như suốt thế kỷ 20, đất nước Nga của chúng ta phải sống sau “bức màn sắt”, khi mà chưa có Internet, điện thoại không thông với nước ngoài, và chúng ta chỉ nhận được thông tin ít ỏi và nhiều khi bị bóp méo do “cấp trên” cho phép được biết. Hồi bấy giờ, ở Liên Xô chỉ có các quan chức nhà nước được trả lương cao mới có quyền “tích cực đấu tranh vì hoà bình” (ý nói các cán bộ xô-viết mang danh Uỷ ban Hoà bình để ra nước ngoài tuyên truyền cho cái gọi là chính sách hoà bình của Liên Xô - ND) và thường họ cũng đồng thời kiêm nhiệm chức trách của nhân viên KGB (Ủy ban an ninh quốc gia, cơ quan tình báo đầu não khét tiếng của Liên Xô hồi bấy giờ - ND). Một đoạn trích ngắn nói trên trong hồi ký của Khrutshev cũng đủ cho thấy “tinh thần yêu hoà bình” của nhà nước Liên Xô. Người dân thường Liên Xô hồi đó đã dám châm biếm cái “tinh thần yêu hoà bình” của Đảng cộng sản bằng một chuyện tiếu lâm khá “độc” dựa trên lối chơi chữ. Trong tiếng Nga, từ “mir” có hai nghĩa: thế giới và hoà bình. Chuyện kể như sau: Trong một buổi tiệc chiêu đãi trọng thể, Alexsei Kosyghin, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, tuyên bố: “Chúng ta kiên quyết đấu tranh giành “mir” (hoà bình)”. Còn Leonid Brezhnev, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên xô, lẩm bẩm với mấy uỷ viên Bộ chính trị đứng bên cạnh: “ Đúng, chúng ta cần “mir” (thế giới), rất cần “mir”(thế giới). Chúng ta rất cần giành cả “mir” (thế giới) này”. Các bạn còn trẻ nên chưa biết, chứ hồi đó mà kể công khai những chuyện tiếu lâm chính trị là phải trả giá đắt lắm - ngồi tù nhiều năm cơ đấy! Thế mà cái “giá” đó cũng không ngăn nổi tinh thần phản kháng ngầm của trí thức Nga! May thay, thời đó đã qua hơn mười năm rồi!


  • * *

Tôi muốn nói riêng về quan niệm của Sứ Giả Hoà Bình đối với các vật dụng. Bà nói như sau: “Cách đây chừng bốn chục năm, tôi đã hiểu được rằng tiền bạc và vật dụng không thể đem lại hạnh phúc cho con người. Và điều này đã được chứng minh nhiều lần. Tôi đã từng gặp nhiều nhà triệu phú. Họ giống nhau ở một điều: tất cả đều bất hạnh”. Tôi tin chắc rằng chẳng có người nào trên thế giới này, thậm chí cả một người hành khất vô gia cư hay một người nghèo nhất ở Châu Phi Xích Đạo cũng không bao giờ có ít đồ dùng hơn Sứ Giả Hoà Bình: bà chỉ có độc một bộ đồ mặc trên người, cái lược và bàn chải đánh răng mà thôi! Vì sao bà lại sống hết sức khổ hạnh như vậy và bao giờ cũng kiên quyết từ chối, khi ai đó muốn biếu bà dù chỉ một bộ quần áo thể thao hay một đôi giày mới? Tôi cho là có mấy nguyên nhân. Thứ nhất, Sứ Giả Hoà Bình hiểu rất rõ rằng “tiền bạc và vật dụng không thể đem lại hạnh phúc cho con người” và bà muốn thuyết phục người khác bằng chính tấm gương của mình. Thứ hai, bà muốn cảm thấy thoải mái, hoàn toàn tự do, vì bà không chịu phụ thuộc vào bất cứ thứ gì trong cái thế giới hết sức vật chất và thực dụng này. Và hơn mọi người khác, bà đã làm được điều đó trong suốt hai mươi tám năm trời. Bằng cuộc sống của mình, bà đã dạy người khác làm thế nào để thoát khỏi sự nô lệ vào vật dụng và trở nên vô tư, tự do và trưởng thành hơn, có nghĩa là độc lập và không bị phụ thuộc, làm thế nào để thật sự hạnh phúc, khi trong tay không có cái gì và không điều khiển được ai cả. Thứ ba, bà có nhận thức vũ trụ, và dĩ nhiên bà hiểu rõ rằng, thế giới càng sản xuất ra nhiều đồ vật thừa thì hành tinh chúng ta càng nhanh chóng cạn kiệt và diệt vong, những nguồn trữ lượng không thể bù đắp được càng mau hết hơn và chúng ta sẽ để lại cho các thế hệ mai sau càng ít hơn. Chúng ta càng muốn có nhiều vật dụng hơn cho bản thân thì chúng ta càng cướp đoạt tàn bạo hơn những thế hệ tương lai. Ngay trước mắt chúng ta, đang diễn ra những điều đáng sợ: các nguồn tài nguyên không thể bù đắp được (than đá, dầu khí, quặng mỏ…), cũng như thổ nhưỡng, thế giới động vật và thực vật, rừng cây, đại dương và những nguồn nước ngọt đang mau chóng cạn kiệt, còn hiện nay thậm chí cả nước uống và không khí cũng có nguy cơ thiếu hụt. Trong lúc đó, bề mặt hành tinh chúng ta đang bị lớp rác rưởi phủ đầy, lỗ thủng của tầng ozone mở rộng (cũng là hậu quả phát triển một số ngành kỹ nghệ), khí hậu hành tinh nóng dần lên. Tất cả những điều này báo hiệu cái chết của hành tinh chúng ta và đang đe doạ nghiêm trọng loài người, không phải trong tương lai xa vời nào đó mà chính bản thân chúng ta và trước hết là những bạn trẻ đang sống trong thời đại của chúng ta. Thế mà họ cũng mơ ước về hạnh phúc như tất cả chúng ta. Tất nhiên, không phải chỉ một mình Sứ Giả Hoà Bình hiểu được tình trạng chung này của thế giới. Cũng nên nhắc đến nhà văn Mỹ Henry Toro hồi thế kỷ 19. Ông không phải là nhà truyền giáo, cũng không phải tu sĩ khổ hạnh, không phải người ẩn dật, nhưng ông kinh ngạc về những người cùng thời của mình: “Làm sao trong một đất nước tự do mà con người lại trở thành nô lệ của đồ dùng, hơn nữa là những đồ không cần thiết?”. Những lời ông nói hồi đó sao mà hiện nay nghe vẫn có tính hiện đại đến lạ lùng, phải không bạn? Chính ông đã thoát khỏi tình trạng nô lệ của vật dụng và trốn vào thế giới “không văn minh” - một trong những vườn quốc gia của Mỹ. Tại đây, ông làm một túp nhà ấm và chắc, chỉ tốn kém có… 48 đô-la. Ở đó, ông sống mấy năm, rồi viết một cuốn sách về chuyện này. Hiện nay, tại chính nơi đây, người ta dựng một túp nhà gỗ giống hệt nhà ông ở trước đây, trong đó là viện bảo tàng của nhà văn Henry Toro, mà thật ra ông chưa từng là nhà văn bao giờ cả. Trong thời gian gần đây, ở các nước phát triển có nhiều người vì muốn thoát khỏi tình trạng nô lệ của vật dụng và những ước lệ xã hội, họ bắt đầu theo một nếp sống giản dị, tự nhiên hơn và hợp lý hơn về mặt sinh thái. Tại Mỹ, có khoảng sáu mươi triệu người đã kiên quyết giản dị hoá cuộc sống của họ và giảm bớt tiêu thụ đến mức tối thiểu. Có nghĩa là họ đã bắt đầu tư duy có phân tích, độc lập, chứ không hùa theo bầy đàn, không còn lao đầu vào cuộc chạy đua điên cuồng theo vật dụng, thời trang và hư danh. Để làm lợi cho mình, những nhà tâm lý lắm kinh nghiệm biết rõ trình độ của đám đông, đã áp đặt cho người tiêu thụ những cái gọi là sở thích chuẩn hoá, thời trang và khát vọng được cái gọi là danh tiếng (prestige). Nhờ đó, họ cũng như những doanh nhân láu cá biết lợi dụng thời trang và quảng cáo đã vơ vào túi mình hàng đống tiền lợi nhuận. Trong khi đó, sáu mươi triệu người Mỹ đã bắt đầu suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống, bắt đầu tin tưởng vào chính bản thân mình và đã trưởng thành hẳn – không chỉ về thể xác mà còn về trí tuệ nữa. Tôi muốn nói thêm là các nhà tâm lý đã kết luận rằng phần đông dân chúng rất dễ bị tác động về mặt tâm lý. Đây là những người dễ chịu ảnh hưởng bởi quảng cáo, báo chí và đủ loại thông tin khác, cũng như bởi “tấm gương” của những người xung quanh, nói tóm lại là những người có đầu óc bầy đàn. Họ không thể tưởng tượng được làm thế nào có thể sống, ăn mặc, suy nghĩ và nói năng khác đi, không giống như những người quanh mình hay bầy đàn của mình. Người ta đã làm thí nghiệm để chứng minh điều này: trong một vườn trẻ người ta xếp trẻ em thành hàng dọc và lần lượt cho mỗi đứa trẻ ăn một thìa đường. Và mỗi lần đều hỏi: “Thế nào, ngọt chứ?”. Tất nhiên tất cả đều trả lời rằng ngọt. Nhưng có một số trẻ thay vì cho đường, lại cho muối. Tuy chúng cong môi… mà vẫn trả lời rằng ngọt! Đó là ví dụ về nhận thức của đám đông. Tất nhiên, trẻ con học sống bằng cách bắt chước người lớn và các bạn xung quanh, nếu không thì nó sẽ không học được gì cả. Đứa trẻ cũng giống như con của bất kỳ một con vật nào cũng được thiên nhiên “lập trình” cho như vậy. Nhưng đáng tiếc là phần đông dân chúng là người lớn mà vẫn giữ cái tâm lý đám đông như vậy suốt đời cho đến tận già! Họ không dám có tâm lý độc lập, không dám là chính họ! Trong những năm gần đây, ở Mỹ cũng như châu Âu có một hiện tượng khá phổ biến là nhiều người tình nguyện và có ý thức chuyển từ những chức vụ có danh tiếng và tiền lương cao sang công việc khiêm tốn hơn và thu nhập ít hơn. Họ làm như thế vì công việc mới này cho phép họ không phải tham gia vào cuộc chạy đua điên cuồng chung, mà sống thật sự, vì có nhiều thì giờ rảnh rỗi hơn, được gần gũi với gia đình hơn, nhất là với con cái, dễ tự bồi dưỡng và phát triển nhiều hơn về mặt tinh thần, tức là đọc sách, quan sát thế giới xung quanh, giao tiếp, suy nghĩ, học tập, tiếp thụ cái mới... Cũng giống như Henry Toro, trong bức thư gửi những người cùng thời hồi đầu thế kỷ 20, nhà văn hào Nga Lev Tolstoi đã kêu gọi mọi người noi theo nếp sống giản dị, phát triển về mặt tâm linh và không tàn phá bộ mặt Trái Đất bằng việc phát triển kỹ nghệ bừa bãi. (Điều này tác giả đã viết trong bài “Di chúc về tâm từ bi” in trong sách “Dưới Bóng Từ Bi” – ND). Thật ra, hồi đó, kỹ nghệ phát triển chưa bằng một phần nghìn bây giờ, thế mà Tolstoi thiên tài đã thấy trước được tình trạng này sẽ đưa nhân loại đến đâu. Nhà bác học Mỹ Eric Fromm đã đưa ra chứng minh đầy tính thuyết phục cho những người cùng thời với ông về những điều Lev Tolstoi đã nói. Dĩ nhiên, điều Eric Fromm đã đưa ra muộn hơn Tolstoi nhiều - mãi đến nửa sau của thế kỷ 20, nhưng cuốn sách của ông “Thủ Đắc Hay Tồn Tại” đã làm cho thế giới sửng sốt. Tự thân nhan đề cuốn sách đã chỉ rõ hai con đường mà nhân loại hiện nay đang đứng trước: hoặc là cứ điên cuồng phát triển kỹ nghệ để dẫn đến tình trạng nhân loại hấp hối và diệt vong, hoặc là dừng lại ở mức đạt được và tồn tại. Tức là câu hỏi muôn thuở: “Tồn tại hay không tồn tại?” (của Hamlet – ND). Các nhà bác học, nhà kinh tế, triết gia, nhà môi sinh và thậm chí một số nhà hoạt động tôn giáo, như Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, đã chứng minh là cách tối ưu cho sự phát triển và sự sống còn của nhân loại là mức tăng trưởng kinh tế bằng số không (zero), nhưng đối với những kẻ điên cuồng tham lam vô độ, nắm trong tay hàng tỷ và hàng chục tỷ đô-la thì cái yếu tố chính của “sự thịnh vượng kinh tế” cho đến nay vẫn là mức tăng trưởng tối đa chỉ với mục đích duy nhất là thu được lợi nhuận tối đa. Tất nhiên, khi nói về việc từ bỏ cái thói thích sắm vật dụng thừa hay từ bỏ sự tăng trưởng kinh tế mà không có điều chỉnh hợp lý, thì chỉ nói đến các nước giàu có hay chỉ nói đến một số ít người giàu trong các nước nghèo mà thôi. Trên thế giới này cũng còn có hàng trăm triệu và thậm chí hàng tỷ người đến bây giờ vẫn chưa có được những thứ nhu yếu nhất, chẳng hạn, nơi nào đó ở châu Phi, châu Á, thậm chí một cái nồi nhôm móp méo cũng đã là cả một tài sản rồi. Còn ở những nước trước đây nghèo đói hàng chục năm, nay nền kinh tế bắt đầu khá lên một chút và mức sống cũng tăng theo, thì ở đấy cũng hoàn toàn vô ích khi kêu gọi mọi người từ bỏ ý thích mua sắm những vật dụng thừa, không cần thiết. Vì ở các nước đó, sau một thời gian dài khan hiếm, thiếu thốn triền miên mọi thứ, nay bỗng nhiên có “đủ tất cả” thứ này thứ nọ, dễ xảy ra hiện tượng thông thường giống như khi những người bị đói lâu ngày, nay được ăn uống ngon lành, khỏe lên và thậm chí béo phị ra mà vẫn còn giữ thói quen giấu bánh mì khô dưới đệm nằm. Trong một mức độ nào đó, có thể xếp nước Nga vào hàng những nước nói trên. Nước Nga đã trải qua hàng chục năm khan hiếm đủ loại thức ăn, vật dụng, ngay cả nhiều thứ nhu yếu phẩm cần thiết nhất. Hồi đó, những thức ăn vật dụng quý hiếm chỉ có những “kẻ đặc quyền, đặc lợi” mua được ở một số cửa hàng phân phối đặc biệt hay ở những cửa hàng ngoại tệ gọi là công ty “Beryozka” (Cây bạch dương nhỏ – ND). Còn dân chúng thì phải đứng xếp hàng đến sáu tiếng đồng hồ mới mua được một đôi giày ngoại nhập. Nay cuối cùng, người Nga đã được nhìn thấy tràn trề đủ loại mặt hàng, từ giày dép, quần áo, bát đĩa, sách vở cho đến những thứ đồ điện, điện tử, hiện đại nhất, v.v… Cho nên cũng dễ hiểu khi nhiều “người Nga mới” (thành ngữ có nghĩa là những trọc phú ở Nga - ND) không thể từ bỏ được ý thích mua sắm những thứ vật dụng thừa, vì họ đã vươn tới tất cả những thứ trước đây không thể có được. Chắc là con cái và nhất là thế hệ cháu của họ sẽ hoàn toàn khác và sẽ đánh giá cao không phải những lợi ích vật chất cụ thể mà chúng đã quen từ bé, vì thế chúng không coi trọng những thứ này (như câu tục ngữ Nga: cái gì chúng ta có thì thường không biết quý), mà là những thứ nào đó ít vật chất hơn – có thể là học vấn, có thể là sự giao tiếp giữa người và người, sự phát triển về mặt tinh thần, hoặc, biết đâu đấy, cả quyền lực, danh vọng hay tài khoản trong ngân hàng. Tại sao bây giờ tôi lại nói điều này? Số là cách đây không lâu, tôi nghe radio và được biết về một cuộc thăm dò ý kiến những người qua đường ở một thành phố của Nga và những câu trả lời làm tôi thấy vui mừng. Cuộc thăm dò ý kiến về đề tài: “Bạn nghĩ thế nào về mốt và mốt có tầm quan trọng gì trong cuộc đời bạn?”. Tôi cứ tưởng rằng người Nga nay đã có được đủ loại hàng hoá, đã có được mốt, có được thông tin chân thật hầu như về tất cả mọi thứ, kể cả những đề tài bị cấm đoán trước đây, thì họ tỏ ra quá tham lam, say mê tất cả những thứ này. Thế mà không! Nhiều chàng trai và cô gái (họ là những người trẻ tuổi và khó hy vọng ở họ cách suy nghĩ chín chắn) đã trả lời đại khái như sau: “Mốt là sự áp đặt sở thích và khẩu vị của kẻ khác”; “Mốt là nhằm vào đám đông”; “Chạy theo mốt là đánh mất mình”, v.v… Những nhận xét đó đúng biết bao! Lẽ nào một cô gái lại thích nghe chàng trai nói: “Anh yêu em! Em thật giống hệt như mọi người”. Tôi nghĩ rằng, trái lại, cô mơ ước được nghe lời nói hoàn toàn khác: “Anh yêu em! Em thật đặc biệt, em là độc đáo nhất đời! Em không giống những người khác”.


  • * *

Bạn vừa biết về cuộc đời của hai người vĩ đại: Albert Schveitzer và Sứ Giả Hoà Bình. Và bây giờ tôi muốn hỏi bạn một câu. Bạn nghĩ xem họ có những điểm gì chung và điều gì đã làm cho hai người đó hạnh phúc? Riêng tôi thì nghĩ thế này: cả hai người đều là những cá nhân xuất chúng và họ đã sống toàn tâm toàn ý vì mọi người. Mỗi người đã sống hết đời mình theo quan điểm riêng của họ và cả hai - vào một ngày nào đó - đều đã hành động “điên rồ” khiến cho họ hàng và người thân phải kinh sợ: họ bắt đầu sống không theo ý muốn của những người xung quanh mà theo ý muốn của chính họ, theo mệnh lệnh của con tim. Cả hai đều đi ngược lại mọi người và đã có hành động mà chỉ những cá nhân đầy ý chí vững mạnh và hoàn toàn độc lập mới làm nổi, còn những người yếu đuối và hạn hẹp thì, trái lại, coi họ là những người điên rồ thật sự. Và cả hai đều đã thắng trong cuộc đối đầu cả với những người xung quanh lẫn với những khó khăn trong cuộc sống. Cả hai là những người thắng lợi và trở nên nổi tiếng toàn thế giới. Tiếc rằng, trong cuộc đời nhiều khi không được như vậy, cố nhiên, không phải vì thế mà kỳ công của những người vô danh khác lại kém phần vĩ đại. Trong cuốn sách này, tôi đã kể về bốn người hạnh phúc: về người học trò cũ của tôi là Kirill Kuznetsov, về bản thân mình, về Albert Schveitser và Sứ Giả Hoà Bình. Như vậy là hai nữ và hai nam. Có người mệnh yểu, có người tuổi thọ cao, còn tôi thì vẫn đang sống. Có thể tạm gọi bốn chúng tôi là những người đồng thời. Cuộc đời của mỗi người đều khác biệt, độc đáo và không ai giống ai. Hơn nữa, đời mỗi người đều không dễ dàng, mà trái lại, đầy khó khăn và thiếu thốn. Chúng tôi chỉ giống nhau ở một điều: tất cả bốn người đều có hạnh phúc. Tại sao tôi lại chỉ kể về bốn người hạnh phúc? Thứ nhất, vì những người này gần gũi với tôi về mặt tâm hồn hay lẽ sống, hơn nữa, tôi nghĩ rằng trên đời này, người hạnh phúc cũng không nhiều lắm. Ở các nước nghèo, người ta không thể có hạnh phúc được, vì chiến tranh, nội chiến, cách mạng, vì chuyên chế, áp bức, vì đói rét, bệnh tật, dốt nát hay vì thiên tai. Ở các nước phát triển, nhiều người không thể có hạnh phúc được, vì tính ích kỷ cực độ mà các phương tiện thông tin đại chúng và quảng cáo cố ý kích thích, bơm thêm, hơn nữa, sự lạc hậu về mặt tâm linh và tư duy thô thiển cũng gây nên. Hay là do lòng tham lam không đáy, tính tự cao tự đại quá độ, do không biết cách sống cùng người khác, do những tật xấu trong tính cách và khiếm khuyết trong giáo dục. Thế mà trong số những người đồng thời với chúng ta, cũng có người bất chấp tất cả, đã xây đắp nên hạnh phúc cho họ, dù có khi không làm được ngay lập tức. Tôi tin rằng cả các bạn nữa cũng có thể làm được điều này. Và không nên coi mình là bất tài, vô duyên, không có khả năng xây dựng hạnh phúc cho mình. Mỗi người đều có tài năng riêng, chỉ cần cố gắng và tìm ra những tài năng tiềm ẩn và bắt tay vào việc – rèn luyện bản thân, xây dựng cuộc sống và hạnh phúc của mình. Không một ai có thể làm thay cho bạn được cả! Nếu bạn giao phó việc này cho người khác, thì hoá ra lại giống như trong chuyện thiếu nhi về chú gấu con và cái “hạnh phúc” của nó. Thứ hai, vì tôi hy vọng là kinh nghiệm đường đời của người khác cũng có thể giúp ích phần nào cho các bạn trẻ chúng ta. Các bạn trẻ có thể so sánh, suy nghĩ và phân tích những điều đã làm cho người khác có hạnh phúc, dù họ hết sức khác nhau. Sau đó, các bạn nghĩ về mình: làm thế nào để xây dựng hạnh phúc cá nhân, những điều gì có thể rút từ kinh nghiệm người khác để áp dụng cho hợp với điều kiện, tính cách và quan niệm sống của mình. Tất nhiên, hạnh phúc cá nhân thì có nhiều kiểu, nhưng tôi mong sao hạnh phúc của các bạn được đa diện nhất, trọn vẹn nhất và vững bền trong bất cứ hoàn cảnh sống cực kỳ khó khăn nào. Tôi mong các bạn trẻ mỗi năm trôi qua càng trở nên vững mạnh hơn về mặt tinh thần, không bị khuất phục trước bất cứ khó khăn nào trong cuộc sống. Khi đó, các bạn không chỉ cảm thấy mình hạnh phúc, mà còn đủ sức giúp người khác và nhờ thế làm tăng thêm điều thiện và hạnh phúc chung trên Trái Đất của chúng ta.

  • * *

Để kết thúc, tôi muốn nói vài lời về những khó khăn trong cuộc sống. Cũng như sự cô đơn, khó khăn không đáng sợ. Cuộc sống không thể tránh được những khó khăn, không ai có thể thoát được chúng. Người ta thường nói “nhà giàu cũng khóc” cơ mà! Dù sao, khó khăn cũng là cần thiết và thậm chí còn có ích nữa. Chính trong khó khăn tính cách con người được tôi luyện. Khó khăn dạy chúng ta rất nhiều điều. Không phải ngẫu nhiên mà các tín đồ Ki-tô giáo còn tạ ơn Chúa, vì đã đem đến cho họ những thử thách trong cuộc đời. Không có khó khăn, đau khổ, trở ngại thì con người không bao giờ trưởng thành được, mà mãi mãi vẫn là đứa trẻ mà thôi. Cho nên chúng ta hãy cám ơn những khó khăn, đau khổ, thử thách, kẻ thù, kẻ đố kỵ và tất cả những trở ngại trên đường đời chúng ta, vì đó chính là những người thầy tốt nhất của chúng ta. Sứ Giả Hoà Bình đã hoàn toàn đúng khi nói về những khó khăn, những vấn nạn trong cuộc sống: “Hãy coi tất cả những vấn nạn, cho dù chúng có khó giải quyết đến mấy, đều là những cơ hội để phát triển về mặt tinh thần và hãy tận dụng tối đa những cơ hội ấy”. Còn khi trong cuộc đời không có một trở ngại nào cả thì con người trở nên rất bất hạnh, không có khả năng hành động kiên quyết, người đó sẽ không bao giờ trưởng thành, cho dù có mang danh hiệu giáo sư và nhận được bằng cấp của bốn trường đại học chăng nữa. Số phận của nữ nhân vật trong truyện ngắn dưới đây minh hoạ điều đó.

CUỘC SỐNG MẪU MỰC

Mashenka (cách gọi âu yếm của tên Maria - ND) thức dậy vào lúc bảy giờ. Như mọi khi. Cũng như mọi khi, nàng thoải mái nằm trên giường thêm chừng mười lăm phút nữa, làm những động tác nhẹ nhàng để cơ thể không bị đột ngột mà dần dần chuyển sang trạng thái tỉnh táo. Và đúng theo thời biểu hàng ngày, nàng tập thể dục, tắm rửa và ăn sáng nhẹ. Kế hoạch ngày hôm nay của nàng đã đầy kín công việc. Buổi sáng, học nhạc, rồi tập các kiểu đua ngựa, sau đó matsa, nghỉ ngơi và ăn trưa. Sau nữa, đi bể bơi, tập yoga, luyện giọng. Còn buổi tối, đi đến trường đại học tổng hợp nghe bài giảng về nghệ thuật thời Phục Hưng (thời đại phát triển tư tưởng và văn hoá các nước Tây và Trung Âu từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 – ND), về văn tự Sumérien (chữ viết cổ đại dạng nêm có từ thế kỷ 29-28 đến thế kỷ 3-1 trước công nguyên, tìm thấy ở vùng Lưỡng Hà – ND) và thuyết tương đối. Trước khi đi ngủ, nàng phải dạo chơi trên bờ biển, làm mặt nạ dưỡng da và lại matsa. Chẳng có một phút nào rãnh rỗi trong ngày cả. Sáng hôm nay, cũng như mọi khi, cũng như nhiều năm liền đã qua, cân nặng, huyết áp, nhiệt độ, nhịp tim, nhịp thở và các chỉ số khác đều ở mức lý tưởng. Chỉ có một điều lạ là nàng thấy buồn buồn. Một nỗi buồn vô cớ. Bâng khuâng không hiểu vì sao. Trong trường hợp này nàng phải gọi bác sĩ. Nhưng cũng chẳng hiểu vì sao Mashenka lại không muốn. Nàng muốn tự mình tìm hiểu tại sao lại như vậy. Nàng đã chán phải nhờ đến người khác vì mỗi một chuyện vặt vãnh. Nhờ đến bác sĩ hay nhà tâm lý trị liệu, người làm matsa hay người tạo mốt, huấn luyện viên cưỡi ngựa hay người đầu bếp, giáo sư trường đại học hay thầy dạy nhạc. Nàng cũng có thể có những việc riêng chứ để tự giải quyết, mà không cần chuyển cho hàng nghìn bàn tay không chỉ có trách nhiệm phải làm, mà còn sẵn sàng, thậm chí mơ ước được hăm hở làm mọi chuyện vì nàng và thay nàng. Mashenka bắt đầu nhớ lại toàn bộ cuộc sống trước đây của nàng, cố tìm hiểu vì sao hôm nay nàng thấy mình có điều gì không mãn nguyện. Lúc đầu, cũng như mọi đứa bé, nàng đi nhà trẻ, rồi học trường phổ thông. Nhưng sau đó, nàng gặp may mắn không thể nào tưởng tượng được. Người ta cho nàng vào học ở VSMM. Đây là đợt tuyển chọn đầu tiên và chưa phải khó lắm - chỉ khoảng một nghìn người dự thí lấy một người thôi. Đáng tiếc (hay cũng có thể là thật may mắn) là không thể nói được rằng Mashenka là người đầu tiên tốt nghiệp VSMM. Bởi vì không bao giờ có người tốt nghiệp VSMM cả. Vì, khi một người đã vô cùng may mắn mà vào được rồi, thì... đó là suốt đời. Người ấy sẽ ở lại VSMM mãi mãi đến khi nào chết thì thôi. Hồi đó, loài người mới bắt đầu hiểu được cái chân lý mà hiện nay thì mọi người đều cho là chuyện đương nhiên: cần phải bảo vệ và gìn giữ không chỉ thiên nhiên hay những di tích lịch sử, mà cả cái Sắc Đẹp, cái Hài Hoà và cái Hoàn Thiện của con người. Vì ba thứ đó là tài sản chung của cả nhân loại, cũng như thiên nhiên, các kiệt tác kiến trúc và nghệ thuật quý giá. Nếu một người gặp may bẩm sinh có sắc đẹp tuyệt trần, trí tuệ xuất sắc và tâm hồn cao thượng thì người ấy hoàn toàn không có quyền không phát triển thêm những phẩm chất đó. Người ấy buộc phải hoàn thiện không ngừng cả về mặt thân thể, cả về mặt đạo đức lẫn về mặt trí tuệ. Người ấy không có quyền bất hạnh. Người ấy phải là người hạnh phúc. Và phải toả sáng bằng cái hạnh phúc, sắc đẹp và trí tuệ của mình cho những người xung quanh, tiếc thay, không được hoàn thiện như thế. Chính để làm điều đó, người ta đã cho ra đời VSMM - Viện cuộc sống mẫu mực toàn thế giới. Người ta lựa chọn vào VSMM những người ưu tú nhất trong số những người ưu tú. Viện được thành lập bằng quỹ của Hội bảo vệ thiên nhiên quốc tế. Người được chọn phần lớn là các cô gái, vì đàn ông kém hoàn thiện hơn đến 18,4 lần. Những huấn luyện viên giỏi nhất thế giới giảng dạy cho nữ học viên đấu kiếm, cưỡi ngựa, tập thể dục mềm dẻo, trượt băng nghệ thuật, v.v… tuỳ theo năng khiếu mỗi người. Những giáo sư đại học nổi tiếng nhất thế giới giảng bài cho học viên của Viện về những môn học mà họ yêu thích. Cả thế giới nhìn vào họ, và họ có nhiệm vụ phải luôn luôn hoàn thiện và chăm sóc thân thể, trí tuệ và tâm hồn của mình. Cuộc sống của họ trôi qua êm đềm và dễ chịu. Để khỏi mất công toi mọi cố gắng nhiều năm của các nhà giáo, cũng như của học viên, người ta chỉ cấm ngặt một số thứ: không được ăn quá no vào buổi tối trước khi đi ngủ, không được buồn rầu, không được làm việc quá mệt mỏi, không được tự lo liệu bất cứ việc gì và không được già đi. Thêm vào đó, cấm các cô không được gọt khoai tây vì da tay có thể đen đi. Thế rồi những con người hoàn thiện này đã làm đẹp thêm thế giới xung quanh bằng sự có mặt của họ. Họ sáng ngời trong các salon và nhạc viện, trong các trường đại học, trường phổ thông, nhà máy và bệnh viện. Tóm lại, sáng ngời ở khắp mọi nơi mà họ muốn hiến dâng lao động của họ, khắp nơi mà mỗi người trong bọn họ muốn cống hiến tri thức và tài năng đã có cho mọi người. Họ sáng ngời trong các công viên và trên bãi tắm, trong các quán ăn và nhà hát, trong các viện bảo tàng và thư viện, và thậm chí ngay cả trên đường phố! Để ai cũng có thể thấy họ, chiêm ngưỡng họ và nếu may ra còn có thể nói chuyện với họ nữa. Và khi ấy, người đối thoại được thưởng thức vẻ khả ái, học vấn uyên bác, tài dí dỏm, sự thanh nhã và lòng tốt của họ. Những con người hoàn thiện này một nửa là do thiên nhiên tạo ra, còn nửa khác là tác phẩm nghệ thuật. Nghệ thuật của các huấn luyện viên, của những đầu bếp, những nhà tạo mốt và của các giáo sư đại học. Sau khi họ xuất hiện, cuộc sống trên Trái Đất này trở nên vui tươi hơn, đẹp đẽ hơn và trí tuệ hơn. Thế thì tại sao sáng nay, Mashenka bỗng dưng lại đâm ra buồn rầu vô cớ như vậy? Mà nàng có quyền buồn rầu đâu cơ chứ?! Điều đó làm nàng ngỡ ngàng, khó chịu. Và lo lắng nữa. Dường như nàng bị một căn bệnh nào đó khó hiểu, nguy hiểm và hầu như đáng xấu hổ. Cho nên nàng định trước hết phải phân tích cả cuộc đời mình. Tự mình làm lấy, mà không cần đến bác sĩ, nhà tâm lý và các giáo sư. Chẳng có điều gì xảy ra mà không có nguyên nhân cả. Mặc dù cuộc đời nàng chẳng có khó khăn, trở ngại gì hết, nhưng ắt phải có một nguyên nhân nào đó mới dẫn đến cái buồn chứ. Hay nếu không phải nguyên nhân, thì ít ra là một hồi ức khó chịu, hay một giấc mơ đầy xao xuyến, hoặc một ý muốn mơ hồ mà nàng chưa kịp nói ra để hàng nghìn người sung sướng, tự nguyện chạy đến giúp nàng. Mashenka biết muời bốn thứ tiếng. Nàng hát hay, vẽ giỏi, biết làm thơ và chơi tám loại nhạc cụ khác nhau. Người ta tranh nhau mời nàng biểu diễn độc tấu ở La Scala (đoàn ca kịch Ý nổi tiếng toàn thế giới ở Milan – ND) và ở Nhà Hát Lớn (ở Moskva – ND), nhưng nàng dứt khoát từ chối, vì nàng yêu thích nhất đời là nghiên cứu địa hoá học. Mashenka đã tốt nghiệp bốn trường đại học tổng hợp, nàng đã viết nhiều công trình nổi tiếng thế giới về địa hoá học và đã có học hàm giáo sư. Thế mà giờ đây toàn bộ cái trí tuệ của nàng lại bất lực trước câu hỏi hóc búa mà tự nàng đặt ra cho mình. Cớ sao nàng lại buồn? Mashenka bỏ giờ học nhạc, không đi cưỡi ngựa và không đi tập cả yoga. Thậm chí, chưa chắc buổi tối nàng sẽ đi nghe giảng ở trường đại học hay có ra bờ biển dạo chơi không. Nàng ngồi trầm ngâm suy nghĩ, nhưng không tìm ra lời giải đáp. Không hiểu tại sao Mashenka lại chợt nghĩ đến cô Mashka (cách gọi thô kệch hay coi thường của tên Maria, tác giả cố ý cho hai nhân vật trùng tên để nổi bật nét tương phản – ND) Morkovina tóc hung hung, mặt lấm tấm tàn hương. Hai cô đã từng học cùng trường phổ thông. Bây giờ cái Mashka này đã lấy chồng từ lâu, bán vé tại rạp chiếu phim và có ba đứa con. Bây giờ cô ta béo phị rồi, tóc lúc nào cũng rối bù và đi đâu thì vội vội vàng vàng. Chẳng bao giờ chăm chút vẻ ngoài của mình cả! Ăn mặc lôi thôi lếch thếch, không tí thẩm mỹ nào, thậm chí cô ta có thể ra đường với đôi giày xanh nước biển, đôi bít tất đen, mặc áo dài vàng, đội mũ đỏ và... cầm túi xách màu xanh lá cây! Nếu sáng ngủ dậy mà thấy bực dọc, thì cô ta dễ sinh sự cãi nhau với mọi người trên xe buýt hay khi chen chúc xếp hàng mua thức ăn. Cô ta thường hay chửi mắng những đứa con vô công rồi nghề của cô, còn trong giờ làm việc thì lúc nào cũng tranh thủ chạy tất bật từ rạp chiếu phim đến cửa hàng, lễ mễ xách những cái túi to tổ bố để kịp mua tất cả những thứ thực phẩm cần thiết. Cô ta được cái giỏi xỏ mũi anh chồng và thường dọa anh rằng sẽ vứt bỏ tất cả để đi bất kỳ nơi đâu, vì cô đã chán ngấy mọi thứ đến tận cổ rồi. Cô đi để bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống an bình và chỉ lo cho mỗi bản thân cô mà thôi. Để được nghe nhạc, đọc sách và chăm chút cho mình. Để đi hàn cái răng sâu đau nhức đã ba tháng nay rồi mà chẳng có chút thì giờ chạy đến bác sĩ. Để được ngủ dù chỉ một lần trong đời cho đẫy giấc. Và chính khi đó, Mashenka mới hiểu được lý do vì đâu nàng buồn. Chính là do nàng chẳng có chút khó khăn nào cả. Chẳng có những điều phiền lòng và lo lắng nào cả. Thậm chí nếu như bỗng dưng nàng muốn lấy chồng và cũng sinh ba đứa con thì những bận rộn của nàng cũng chẳng tăng lên chút nào. Vì khi đó sẽ có cả một đội ngũ nhân viên VSMM nuôi nấng, thay tã, chữa bệnh, giáo dục và dạy dỗ con cái rồi. Lý do nỗi buồn hoá ra là vì nhiều năm trời nàng chỉ làm những việc nàng muốn mà thôi. Và điều đó cũng rất đáng buồn thật. Buồn không kém khi cả đời phải làm những việc mà mình hoàn toàn không muốn làm. Và chính cái VSMM đáng nguyền rủa kia có tội trong mọi chuyện này, vì nó mà nàng đã không được sống cuộc đời bình thường của con người bình thường với những đau khổ, những bận tâm, những lo lắng và những điều phiền muộn trong đời. Cả ngày trời Mashenka suy nghĩ rất lung: bây giờ nàng phải làm thế nào. Và đến tối nàng đã nghĩ ra cách trả thù đáng sợ. Cái cách trả thù mà tất cả báo chí sẽ viết về nó nhiều tháng trời. In trên trang nhất. Cái cách trả thù mà cả nhân loại sẽ phải run lên. Chà, họ sẽ biết tay nàng! Vào lúc mười giờ tối, Mashenka ra khỏi phòng mình. Nàng xuống nhà ăn. Nàng hoàn toàn bình tĩnh ngồi vào bàn. Và bắt đầu ăn. Dù nàng chẳng thấy đói tí nào. Nàng ăn, ăn mãi. Ăn no đẫy bụng, ứ đến tận cổ. Trước khi đi ngủ! Ăn đủ thứ, cay có, mặn có, ngọt có, nhiều chất bột có và thậm chí cả nhiều mỡ nữa!!!


Chương 11 PHỤ LỤC: NHỮNG CÂU ĐỐ TÂM LÝ

Trong cuốn sách này đã có khá nhiều tư liệu nghiêm túc. Bây giờ, tôi đề nghị bạn đọc giải trí và thư giãn đôi chút. Và đồng thời cũng buộc bạn phải căng óc suy nghĩ một tí. Tôi xin đưa ra vài câu đố tâm lý. Những câu đố này phần lớn có liên quan đến chương về va chạm, xung đột và đòi hỏi sự nhanh trí, thông minh và lối suy nghĩ độc đáo, thậm chí lối suy nghĩ ngược đời. Tất cả các tình huống này đều là có thật, đã từng xảy ra trong đời sống, chứ không phải bịa đặt. Dưới đây, tôi đưa ra một số tình huống va chạm, xung đột rất khác nhau. Và tất cả các tình huống này đểu được giải quyết êm đẹp, mà không hề xảy ra chửi mắng, đổ máu hay phải dùng đến bạo lực, nhờ sự thông minh và nhanh trí của những người rất bình thường, chưa hề là nhà tâm lý. Tôi đề nghị bạn đứng vào địa vị “các nhân vật” và đoán xem họ đã nói gì hay làm gì khiến cho xung đột biến mất và được giải quyết đúng theo theo ý muốn của người nói. Có thể tạm gọi trò chơi này là “Và anh (ông, chị, bà) ấy nói…”. Tôi đề nghị bạn đoán xem điều gì đã được nói ra hay được làm. Tôi chắc rằng bạn không thể nào đoán ra được. Nhưng, dù sao bạn hãy suy nghĩ một chút, chứ đừng vội xem câu trả lời bên dưới. Biết đâu đó, bạn nghĩ ra được một cách giải quyết còn tài tình hơn nữa so với trong sách?! Bạn hãy thử xem! Bạn cũng có thể đem ra đố những người quen, rất có thể họ đưa ra cách giải quyết độc đáo của họ. Sau đây là những tình huống: 1. Tại bến đợi xe buýt, một nhóm thiếu niên choai choai chửi tục, nói càn, khạc nhổ lung tung. Có một bà cụ quở trách chúng, nhưng chúng chẳng thèm để ý đến, trái lại, còn hăng máu làm bậy hơn nữa. Một bà khác chỉ cần nói một câu ngắn gọn. Thế mà bọn chúng ngừng hẳn ngay, không dám làm gì nữa. Bà ấy đã nói gì? 2. Một người phụ nữ tốt bụng đã nhiều năm cho lũ mèo hoang dưới nhà ăn và chăm sóc chúng. Trong khi đó, một mụ già láng giềng độc ác lại đánh đập và thậm chí đánh bả để giết chúng. Hàng xóm nói thế nào mụ cũng không chịu nghe. Thế rồi người phụ nữ tốt bụng đã nói một câu... và từ đấy mụ kia không còn dám độc ác với mèo hoang nữa. Người phụ nữ đã nói gì? 3. Một người trại chủ Mỹ rất bực tức, vì những đứa trẻ địa phương hết ngày này đến ngày khác chạy nhảy và la hét trước cửa nhà của ông. Ông yêu cầu, khuyên can, dọa dẫm chúng... cũng đều vô ích. Trái lại, chúng còn làm ầm ĩ hơn nữa để trêu tức ông. Và khi đó ông đã nghĩ ra một kế... Cuối cùng, đám trẻ không đến chơi ngay trước cửa sổ nhà ông nữa. Ông đã làm gì? 4. Sau khi uống rượu với bạn ở quán ăn, một diễn viên nổi tiếng lên xe, lái về nhà. Trên đường, người cảnh sát giao thông đã dừng xe anh lại và muốn xác nhận là anh ta say rượu. Người diễn viên không bước ra ngoài, vẫn ngồi sau tay lái mà trả lời anh cảnh sát qua cửa kính xe hé mở. Anh cảnh sát muốn xem dự đoán của mình có đúng không, bèn cúi xuống thấp hơn sát mặt người lái xe, cố ngửi xem có mùi rượu không để có cớ bắt người lái xe về đồn, phạt tiền hay thu bằng lái… Người diễn viên phản ứng rất nhanh. Anh thốt ra chỉ vài từ... với người cảnh sát. Thế mà anh cảnh sát nhảy lùi ra như bị điện giật, còn người diễn viên bình tĩnh phóng xe về nhà. Người diễn viên đã nói gì? 5. Buổi tối, trên một quãng đường vắng vẻ, một tên hiếp dâm lao vào cô gái. Cô gái kêu lên ... thì tên này luống cuống bỏ cô ra. Cô gái đã kêu gì? 6. Người ta chở đến bệnh viện một bợm ghiền ma tuý sắp chết vì dùng quá liều. Đưa y vào phòng cấp cứu, truyền thuốc và đã cứu sống y. Nhưng khi lên cơn thèm ma tuý, không chịu nổi, y liền làm ầm ĩ lên, giật ống truyền thuốc trên tay, nhảy khỏi giường và nhất định đòi ma tuý. Các y tá trực đã giữ tay y, đưa lên giường nằm và lại đặt ống truyền thuốc. Nhưng họ không thể trực bên cạnh và giữ tay y mãi, còn y thì vẫn la hét inh ỏi, doạ rằng trước sau cũng chạy thoát và sẽ đập phá hết ở đây, nếu không cho y ma tuý. Lúc đó, bác sĩ phẫu thuật đến và nói to: “…………”. Y im lặng ngay tức thì, ngoan ngoãn nằm yên suốt mấy ngày sau đó. Bác sĩ phẫu thuật nhanh trí kia đã nói gì? 7. Có một tên lưu manh gọi điện thoại quấy nhiễu một bà. Hắn liên tục gọi điện cho bà, đe dọa, văng tục và chửi rủa đủ cách. Bà hết sức lo buồn, nhiều lần đã xỉa xói tên lưu manh, rồi khóc lóc, uống thuốc an thần. Nhưng vô hiệu, hắn lại càng hăng tiết lên. Cuối cùng, bà đã nghĩ ra cách trị hắn. Bà… Bà đã làm gì? 8. Một người phụ nữ đi dạo ở ngoài rìa công viên. Con chó nòi Saint Bernard to lớn ngoan ngoãn đi sau chủ vài mét. Bỗng nhiên, có một bà xông đến và bắt đầu quát mắng. Bà ta cứ bám theo mãi người phụ nữ có con chó và tru tréo ầm lên: “Như thế thật là bất trị quá chừng! Phải buộc dây con chó lại! Phải đeo rọ mõm cho nó! Không được đi dạo với con vật ghê tởm này ở đây!” Người phụ nữ chủ con chó… Lúc đó bà kia xấu hổ và cuốn xéo ngay. Người phụ nữ kia đã hành động như thế nào? 9. Ngày xưa, hoàng đế Trung Hoa mở đại yến trong triều. Các thị tỳ bày trên bàn tiệc đủ mọi thứ cao lương mỹ vị. Bỗng hoàng hậu kiểm thấy mất một cái bánh rán trên đĩa, liền tra hỏi các thị tỳ: “Đứa nào dám lấy cắp và ăn cái bánh, hả?” Nhưng không một ai thú nhận cả. Hoàng hậu nghĩ cách vạch mặt kẻ phạm tội giữa chốn cao nghiêm của triều đình. Bà... Hoàng hậu đã làm gì? 10. Trong công viên vắng vẻ, một tên cướp xông vào người phụ nữ, đánh vào đầu, chắc là định giết bà. Lúc đó, bà van xin tha chết. Bà nói... Và tên cướp ngừng tay, nhờ đó bà chạy thoát được. Bà đã nói gì với tên cướp? 11. Một cụ già không còn răng đã nuốt miếng thịt quá to và bị nghẹn. Phải đưa ông cụ vào bệnh viện cấp cứu. Cụ bị nghẹt thở, nhưng bác sĩ không thể nào lấy miếng thịt ra được vì nó lọt quá sâu vào cổ họng. Phải làm phẫu thuật ngay tức thì mới lấy ra được. Nhưng mọi người đều hiểu là cụ sẽ nghẹt thở mà chết trước khi kịp làm phẫu thuật. Lúc đó, người bác sĩ đã cứu được cụ già bằng cách vô cùng độc đáo, thậm chí không dính dáng gì đến y học cả. Chỉ làm trong mấy phút thôi, mà chẳng cần đến phẫu thuật gì hết. Bác sĩ đã nghĩ được cách gì? 12. Trời tối đen như mực, một nữ doanh gia đi từ ngân hàng về nhà, vai đeo túi xắc đầy tiền, mà phải vượt qua một bãi đất vắng vẻ. Một tên cướp lao vào bà, giật lấy túi xắc. Khi đó, bà doanh nhân nói... Nhờ đó, bà kịp giật lại cái túi xắc và ù té chạy. Bà ấy đã nói gì với tên cướp? 13. Tại một phân xưởng nhà máy, có một anh thợ giỏi tuyệt vời. Các bạn thợ hàng ngày đều chạy tới nhờ vả anh khi việc này, khi việc nọ, mà hầu hết là những vấn đề kỹ thuật khó giải quyết nhất. Anh ta giúp đỡ mọi người trong nhiều năm. Nhưng điều đáng buồn là tiền lương của anh cũng chỉ bằng tiền lương của các bạn thợ kém cõi hơn anh nhiều. Bực mình quá, anh bảo thẳng với giám đốc nhà máy: “Ông biết đấy, tôi làm việc bao nhiêu năm nay, giúp đỡ cho các bạn thợ biết bao nhiêu, mà đồng lương của tôi chẳng hơn gì của họ. Nếu không tăng lương thì tôi bỏ đi nơi khác”. Quả là nhà máy không thể nào tăng lương cho anh được. Nhưng giám đốc đã nghĩ ra một cách... Và anh thợ giỏi vui lòng ở lại nhà máy làm việc. Ông giám đốc đã có cách gì để anh thợ giỏi vui lòng ở lại? 14. Một nhà máy nằm trong khu kỹ nghệ lớn, gặp phải tình trạng rất khó khăn là công nhân thường xuyên đến làm muộn, khi mười, khi mười lăm, hai mươi phút. Điều đó gây thiệt hại lớn cho nhà máy. Nhưng xét cho cùng thì công nhân cũng không có lỗi: họ đi trễ vì ở khu kỹ nghệ đó nhiều nhà máy, vào giờ cao điểm đường sá bị nghẽn, xe bị kẹt phải chờ lâu. Ban giám đốc nhà máy họp bàn phương cách giải quyết tình trạng này. Người thì đưa ra phương án mở rộng đường sá, người thì đề nghị chuyển nhà máy đến chỗ khác, v.v... Nhưng cách gì cũng bất khả thi cả, vì nhà máy không đủ ngân sách làm những việc đó. Duy có một người đưa ra đề nghị... Nhờ đó, nhà máy đã giải quyết được nạn đến làm muộn mà không tốn một xu nào. Người đó đưa ra kế sách gì? 15. Tại một viện nghiên cứu khoa học, người giám đốc lại là một tay hống hách, độc đoán, quen thói bắt nạt cán bộ, nhân viên. Mỗi lần gọi cán bộ đến làm việc ở phòng giấy, dù cán bộ là những nhà “khoa bảng” có học hàm cao, nhưng lão giám đốc vẫn tìm cách bắt bẻ, vặn vẹo, quát nạt, thậm chí có khi còn hạ nhục người ta. Thế mà có một chị cán bộ nghiên cứu mới đến làm việc, đã được bạn đồng nghiệp cho biết cái thói tệ hại của lão giám đốc này, đã nghĩ ra cách đối phó. Một lần, tay giám đốc cho vời chị đến phòng giấy, chị đã đến, lão giám đốc bắt đầu lên giọng nạt nộ, thì chị nói ngay... Từ đó, mỗi lần gọi chị đến phòng làm việc, lão lại mỉm cười, hoà nhã tiếp chuyện, và chị là người duy nhất trong Viện được hưởng cái “đặc ân”đó. Chị đã nói gì với lão giám đốc? 16. Tại một công ty sản xuất rượu nho ở Pháp, công nhân làm việc ở dưới hầm rượu thường được phát áo lông tơ (thường làm bằng lông tơ của chim vùng Bắc cực – ND) đắt tiền vì dưới hầm luôn luôn có nhiệt độ rất thấp để cất giữ rượu được lâu năm. Khổ một nỗi là áo lông tơ đắt tiền nên thường xuyên bị mất. Chủ công ty nhiều lần mua áo lông mới, nhưng lần nào cũng thế, chỉ một thời gian ngắn các áo lông đều biến mất. Công ty không chịu bỏ tiền mua áo lông nữa. Thế là công nhân tuyên bố: nếu không có áo lông làm việc thì sẽ đình công. Cuộc xung đột đến hồi gây cấn, thì có người nghĩ ra một cách giải quyết... Từ đó áo lông không mất nữa, mà công nhân thì yên tâm làm việc dưới hầm rượu. Người đó nghĩ ra cách gì? 17. Ở chợ bán quần áo tại Sân vận động Luzhniki ở Moskva, một bà già đã đứng ở quầy hàng tạp hoá định mua cái còi tặng cho thằng cháu nhỏ, thì bỗng thấy một tên lưu manh hùng hổ cướp giật cái quần bò (quần Jeans) của anh Trung Quốc đang đứng bán bên cạnh. Anh ta ú ớ kêu lên. Vì không phải là tiếng Nga nên không ai hiểu hay cũng vì thái độ thờ ơ mặc kệ của mọi người, nên chẳng một ai giúp gì cho anh Trung Quốc. Bà già lại muốn giúp anh ta lấy lại chiếc quần bò, nhưng trong tay không có gì cả, mà chạy đuổi theo thì bà không chạy nổi. Thế là bà... Tên lưu manh sợ quá, không dám ngoái cổ lại mà vứt cái quần bò, chạy tháo thân. Còn anh Trung Quốc mừng rỡ chạy đến vồ lấy cái quần bò của mình. Bà đã làm gì?



  • * *

1. Bà ấy chỉ nói vẻn vẹn có mấy từ, rất bình tĩnh như là nói với chính mình: “Chắc là chúng nó tưởng chúng là những con lạc đà!” (khi khó chịu với người, lạc đà thường có thói nhổ nước bọt vào người đó – ND). 2. Người phụ nữ nói rằng: “Này, bà Tamara, nếu bà không bỏ cái trò đánh giết mèo đi, thì tôi sẽ đến nhà thờ, cắm nến cầu hồn cho bà đấy!”. 3. Người trại chủ đã gọi bọn trẻ lại và nói với chúng: “Này, các cháu ơi, ban đầu bác có giận giữ thật đấy, vì các cháu làm ồn trước cửa sổ nhà bác, nhưng dần dần bác đã quen rồi và lại còn thấy thích nữa. Lúc không có các cháu đến, bác lại còn cảm thấy thiêu thiếu cái gì đấy. Cho nên bác muốn các cháu đến đây chơi đùa thường xuyên hơn nữa. Bác sẽ cho mỗi cháu hăm lăm xen (xu) một ngày”. Những đứa trẻ mừng rỡ và tiếp tục làm ồn trước cửa sổ để… lấy tiền. Sau một thời gian, người trại chủ lại gọi chúng đến và bảo: “Các cháu biết không, bác bị khó khăn về tiền nong, giá sữa trên thị trường giảm xuống, cho nên bây giờ bác chỉ đủ sức trả mười lăm xen một ngày mà thôi”. Bọn chúng cũng đồng ý và tiếp tục la hét trước cửa sổ. Sau một thời gian ngắn, người trại chủ lại gọi chúng đến và bảo: “Công việc của bác ngày càng tồi tệ, nông trại chắc phá sản mất! Tiếc thay, bây giờ bác chỉ trả các cháu không quá năm xen một ngày thôi!”. Bọn đứa trẻ ngay lập tức giận dỗi. Chúng la ó lên: “Thế thì ông hãy đi tìm những đứa ngu khác mà làm trò giải trí cho ông với cái giá năm xen này!” Từ đấy, chúng không còn bén mảng trước cửa sổ nhà ông nữa. 4. Người diễn viên hỏi với bộ mặt suồng sã: “Anh hôn em nhé?”. 5. Cô gái la lên: “Hoan-n-n hô-ô-ô!!!” (tiếng Nga là “U-ra!!!”). Tên hiếp dâm luống cuống, chưa bao giờ hắn từng gặp một cô gái như vậy, nên nghĩ rằng chắc cô bị bệnh gì kinh khủng lắm, thậm chí có thể là bệnh SIDA, nay có dịp trả thù, truyền bệnh cho người khác. 6. Bác sĩ phẫu thuật nhanh trí đó đã nói to với các y tá trực: “Này, các cậu, việc quái gì phải gượng nhẹ với hắn? Nếu hắn mà vùng ra lần nữa thì cứ tóm cổ hắn, vật lên bàn mổ và đè cổ hắn cho tôi. Tôi sẽ cắt tiết hắn, mà chẳng một ai biết được đâu!” 7. Bà đã hành động như sau: lúc tên lưu manh gọi điện lần nữa, bà nhấc ống nghe lên và đặt trên bàn, rồi đi gọt khoai tây. Sau một thời gian, khi chỉ nghe những tiếng tút tút ngắn, bà đặt ống nghe lại chỗ cũ. Bà làm như vậy vài lần. Từ đó, tên lưu manh mất hứng không gọi nữa. Hắn hiểu rằng chẳng có ai nghe hắn nữa. Hắn chẳng còn thấy khoái trá vì không làm người khác phải đau đầu. 8. Người phụ nữ chủ con chó hành động như sau: bà cứ dửng dưng im lặng tiếp tục đi. Con chó cũng lặng lẽ đi sau bà. Cái bà kia càng chạy theo sau họ mà mắng mỏ, thì lại càng tỏ ra là kẻ sinh sự, ngu ngốc dưới con mắt những người xung quanh mà không một ai hưởng ứng bà ta. Khi hiểu rằng mình đã rơi vào tình cảnh lố bịch, bà phải lặng lẽ rút lui. 9. Hoàng hậu ra lệnh cho các thị tỳ vào một phòng riêng, bắt mỗi người súc miệng rồi nhổ vào bát. Xem bát nào nước đục có dính bột bánh là biết ngay. 10. Bà van xin thảm thiết: “Xin đừng giết tôi. Bù lại, xin cứ lấy chiếc đồng hồ vàng của tôi!” Vừa nói, bà vừa vội vã tháo đồng hồ đeo tay ra và chìa cho tên cướp. Tên cướp cầm chiếc đồng hồ chăm chú xem xét. Lúc đó thì bà kịp chạy thoát. Buồn cười nhất là chiêc đồng hồ màu vàng chứ không phải vàng thật. 11. Bác sĩ nhờ bà dọn buồng bệnh nhân đưa máy hút bụi đến. Đút ống hút vào cổ họng cụ già và cho máy chạy hết tốc lực, nhờ đó hút được miếng thịt ra. 12. Bà doanh nhân âu yếm nói với tên cướp: “Này anh, trời lạnh buốt như thế này, mà khăn quàng cổ của anh lại bật tung ra cả thế này. Cảm lạnh mất thôi! Hãy quấn khăn lại cho kỹ đi!” Và đưa tay lên làm như muốn quấn lại khăn cho tên cướp. Tên này bối rối đưa tay lên cổ sờ vào khăn quàng, và trong mấy tích tắc đó đủ kịp cho bà doanh nhân giật lại túi xắc và cắm cổ chạy. Cũng may là bà còn trẻ và chạy khá nhanh! 13. Ông giám đốc tìm một phòng nhỏ có đặt máy điện thoại đàng hoàng, ngoài cửa phòng có biển nhỏ đề tên anh thợ giỏi với chức vụ mới “Thợ cả”. Anh công nhân vẫn làm việc ở nhà máy như trước, nhưng mỗi khi ai cần hỏi gì thì đến văn phòng của anh để “thợ cả” bày vẽ cho. Mặc dù không tăng lương gì cho anh, nhưng anh thợ bằng lòng vì đầu óc thích danh vị đã được thoả mãn. Không được thêm tiền thì cũng được tiếng! 14. Người đó đưa ra đề nghị: lùi lại giờ làm việc hàng ngày một tiếng đồng hồ, nghĩa là thay vì bắt đầu từ 8 giờ sáng thì nay bắt đầu từ 9 giờ. 15. Khi lão giám đốc bắt đầu nạt nộ, thì chị nói ngay rất lễ phép: “Ôi! Xin ông tha lỗi cho, tôi sẽ xin phép đi ra trong ba phút rồi sẽ vào sau. Và tôi hy vọng là lúc đó ông sẽ đón tôi bằng một nụ cười’. Ba phút sau chị vào lại thì lão giám đốc đã mất hứng quát nạt rồi và đã đón chị bằng nụ cười đúng như chị muốn. 16. Người đó nghĩ ra cách sau: đặt mua những áo lông tơ mới, sau lưng áo in dòng chữ to tướng “Áo này là đồ ăn cắp!” Thế là chẳng ai còn muốn ăn cắp áo để bán lại nữa. 17. Bà già bèn vớ lấy cái còi và thổi inh ỏi giống như cách công an thường thổi khi có chuyện gì xảy ra. Tên lưu manh sợ quá, vứt cái quần bò, chạy tháo thân.


Chuyển ngữ xong cuối năm 2002. 18:07, 10 февраля 2009 (UTC)18:07, 10 февраля 2009 (UTC)Tamqui

На главную страницу "Мир Будды"

Магазин
Магазин
Журнал «Империя Духа» в библиотеке буддийского храма.
Журнал «Империя Духа» в библиотеке буддийского храма.
Наверх